Ben-Hur là một câu chuyện về một người anh hùng hư cấu tên là Judah Ben-Hur, một quí tộc người Do Thái bị kết tội oan và bị xử án vì chủ mưu ám sát một kẻ thống trị người La Mã và do đó bị quân La Mã bắt làm nô lệ. Anh ta trở thành một người điều khiển xe đua ngựa thành công. Cốt truyện báo thù trở thành câu chuyện của cảm thương và tha thứ.
Jebel es Zubleh là một ngọn núi dài hơn năm mươi dặm, và hẹp đến nỗi mà đường vẽ nó trên bản đồ giống như một con sâu đang bò từ nam sang bắc. Đứng trên mỏm đá đỏ và trắng của núi, nhìn ra phía xa dưới con đường mặt trời đang lên chiếu rọi, người ta chỉ nhìn thấy duy nhất sa mạc Arabia, nơi những con gió thổi từ phương đông, mà những người trồng nho vùng Jericho quá đỗi căm hờn, chưa bao giờ đổi sân chơi của chúng. Cát hất lên từ bờ sông Euphrates, phủ đầy chân núi, và nằm yên ở đó, vì ngọn núi là bức tường chắn bảo vệ phần đất đồng cỏ Moab và Annon ở phía tây- mà nếu không thì những mảnh đất ấy đã trở thành một phần của sa mạc.
Người Arab đã áp đặt ngôn ngữ của mình lên tất tật mọi thứ từ nam cho đến đông Judea, vậy nên, theo thứ tiếng của anh ta, núi Jebel cổ là gốc gác của vô số những rãnh mương khô cằn, giao thoa với đường Roman – giờ chỉ còn là dấu vết mờ nhạt của một thời đã xa, một con đường bụi mù với những người hành hương Syria đến và đi từ Mecca – kéo những rãnh cày của họ, càng đi càng sâu, để vượt những dòng nước xiết trong mùa mưa tiến vào lãnh thổ Jordan, hay bể chứa cuối cùng của họ, Biển Chết. Qua một trong số những rãnh mương khô ấy – hay, cặn kẽ hơn, một rãnh mương khô nằm ở nơi kịch cùng của Jebel, và kéo dài tới phía đông bắc, cuối cùng trở thành lòng sông Jabbok – một lữ khách đã đặt bước chân, trên đường đi tới bình nguyên của sa mạc. Tới người lữ khách này xin khẩn nài sự quan tâm trước nhất của đọc giả.
Nhìn vẻ bề ngoài, anh ta đã gần bốn mươi lăm tuổi. Hàm râu của anh ta, thuộc loại đen nhất, phất phơ khắp ngực anh ta, đã lấm tấm những sợi trắng. Khuôn mặt anh ta sạm nâu như màu cà phê rang, và được một chiếc khăn kufiyeh đỏ bao kỹ ( lũ trẻ sa mạc thời đó gọi là khăn phủ đầu) nhưng cũng hé ra phần nào. Đôi lúc anh ta nghiếc mắt nhìn lên, những con mắt to và đen. Anh ta quấn quanh người mình những tấm vải chảy quá phổ biến ở phương đông; nhưng phong thái của họ có thể không được miêu tả cặn kẽ hơn, vì anh ta ngồi dưới một túp lều nhỏ, và cưỡi lạc đà một bướu trắng lớn.
Liệu người phương Tây có bao giờ xóa bỏ được ấn tượng in sâu trong họ ngay từ lần đầu tiên trông thấy một con lạc đà bị chất đống hàng hóa và dụng cụ trên lưng chuẩn bị cho chuyến du hành qua sa mạc, không thể biết chắc được. Thói quen, trở thành tiền lệ quá đỗi với những sự vật mới lạ khác, có ảnh hưởng tới cảm nghĩ đó nhưng chỉ là chút xíu. Cuối những cuộc hành trình dài đằng đẵng cùng với những đoàn lữ hành, sau nhiều năm chung sống với những người Arab du thử du thực trên sa mạc, những người Tây phương, dù ở bất cứ nơi nào, sẽ dừng lại và chờ đợi những con vật oai vệ đi qua. Vẻ cuốn hút không ở dáng hình, mà thậm chí ngay cả tình yêu cũng không thể làm nó đẹp được; cũng chẳng phải ở điệu di chuyển, bước đi không tiếng động, hay chệnh choạng nghiêng dài sang một bên. Như sự bao dung của biển cả với một con tàu, thì sa mạc cũng ôm ấp sinh vật của nó. Nó bao bọc lấy con vật với tất cả huyền bí của mình; cũng theo cách như vậy, rằng khi chúng ta ngắm nhìn con vật chúng ta nghĩ về những huyền bí ấy: điều kỳ diệu là ở chỗ đó. Con vật giờ đây đã bước ra khỏi rãnh mương khô có lẽ đã có được sự tôn kính theo lẽ thường. Màu sắc và chiều cao của nó; bàn chân rộng của nó, thân hình to lớn của nó, không mỡ, mà nổi đầy bắp thịt; cái cổ dài duyên dáng, nét cong như thiên nga của nó; cái đầu, rộng giữa hai con mắt, thon hình búp măng tới tận một mép miệng mà có thể chiếc vòng cổ của một quý bà xuýt siết chặt; dáng đi của nó, bước dài và nhún nhảy, bước đi vững chắc và không tiếng động – tất cả đều minh chứng cho dòng máu Syrian của nó, xa xưa như thời trị vì của Cyrus đại đế, và đương nhiên là vô giá. Có chiếc dây cương loại thường, bao lấy mặt trước với những tua rua màu tím, và trang trí cổ họng bằng những sợi dây bằng đồng lủng lẳng, mỗi đầu được xỏ một chuông bạc kêu leng keng; nhưng nối với chiếc dây cương này chưa bao giờ có dây thắng cho người cưỡi hay đai da cho vật cưỡi. Đồ đạc được chất lên lưng là một phát kiến mà có lẽ nó làm cho người phát kiến ra trở nên nổi tiếng với bất cứ ai khác ngoài người phương Đông. Nó gồm hai hộp gỗ, dài gần bốn thước, được xếp cân đối để mỗi hộp treo vững mỗi bên; khoảng trống giữa, được phân chia khéo léo và lót thảm, được sắp xếp để ông chủ có thể ngồi hoặc nằm tựa đầu một bên; trải lên trên tất cả là tấm vải bạt màu xanh. Dây da khổ rộng quấn quanh ngực và lưng, với những dây chằng, giữ chặt bằng vô số những nút buộc và thắt, để đồ đạc không bị xô lệch. Những người con trai tài ba của Cush bằng cách đó đã xoay sở để những con đường nắng cháy nơi hoang mạc trở nên dễ chịu, trải dài theo cùng nghĩa vụ cũng như thú vui của họ.
Khi con lạc đà một bướu nhấc bước ra khỏi đoạn cuối cùng của con mương khô, người lữ khách cũng đã vượt qua đường biên của El Belka, Ammon cổ xưa. Giờ là thời khắc của buổi sáng. Trước mặt anh ta là mặt trời, bị lớp sương mù bồng bềnh che khuất một nửa; trước mắt anh cũng là sa mạc trải dài; chưa phải là vùng mà cát phủ, vùng đó ở xa hơn, nhưng lại là vùng đất nơi cỏ bắt đầu còi cọc; nơi trên bề mặt rải rác những tảng đá granit, và những viên đá xám, nâu, xen kẽ những cây keo và những búi cỏ lạc đà. Cây sồi, bụi gai, và cây dương mai nằm phía sau, như thể chúng đến xếp hàng, liếc nhìn sang vùng sa mạc hoang vu và rúm mình sợ hãi.
Và giờ có một lối đi hay một con đường đến hồi tận cùng. Hơn bao giờ hết con lạc đà dường như bị điều khiển một cách thờ ơ ; nó sải bước dài và nhanh, đầu nó ngẩng cao về phía chân trời; qua cái lỗ mũi rộng của mình nó uống làn gió trong những cơn khô hạn vô cùng. Rác rưởi lượn lờ, rồi bay lên rồi rớt xuống như một con thuyền giữa những cơn sóng. Những chiếc lá khô thỉnh thoảng theo lớp xào xạc dưới gót chân. Đôi lúc mùi hương như như mùi ngải đắng làm ngọt toàn bộ không khí. Chim chiền chiện, chim chích, nhạn họng đỏ vỗ cánh bay, còn những con gà gô trắng vừa chạy vừa la làng cục cục gọi gà con. Năm thì mười họa mới thấy một con cáo hay một con linh cẩu chạy thụt giò, để dò chừng kẻ thù ở một khoảng cách an toàn. Hết lối đường qua bên phải mọc lên những quả đồi của núi Jebel, lớp mù màu ngọc xám choàng lên chúng đổi thành màu tím trong chốc lát mà mặt trời sau đó ít lâu cũng không thể sánh kịp. Trên những đỉnh cao nhất một con kền kền chao liệng đôi cánh sải rộng theo những vòng tròn ngày càng lớn dần. Nhưng trong tất cả những khung cảnh đó người trú dưới túp lều xanh không nhìn thấy gì, hay, ít nhất, tỏ dấu hiệu nhận biết thấy. Đôi mắt anh ta bất dịch và mơ màng. Đường đi của người, như đường đi của con vật, như thể do ai đó khác chỉ huy.
Trong khoảng 2 giờ con lạc đà lắc lư về phía trước, giữ vững tốc độ đi và đường đi về phía đông. Trong khoảng thời gian đó người lữ khách không thay đổi vị trí của mình, cũng không nhìn sang trái hoặc phải. Trên sa mạc, khoảng cách không được tính bằng dặm hay lý, mà bằng saat, hay giờ, và manzil, hay sự dừng nghỉ : ba lý rưỡi tính theo đơn vị đầu tiên, mười lăm hay hai mươi lăm theo đơn vị sau; nhưng đó là cách tính cho lạc đà thông thường. Một con lạc đà có dòng dõi Syrian chính cống có thể đi ba lý một cách dễ dàng. Ở tốc độ hết cỡ nó vượt những ngọn gió tầm tầm. Bộ mặt của cảnh quan đã trải qua sự thay đổi, do một trong những kết quả của việc tốc hành. Ngọn Jebel trải dọc theo chân trời phía tây, như một dải ruy băng màu xanh nhạt. Một gò, hay đống từ đất sét và cát liên kết, mọc lên đó đây. Thỉnh thoảng một số những hòn đá bazan nhô lên những vương miện tròn của chúng, dãy mặt trước của núi chắn lấy những sinh lượng của đồng bằng; tất cả còn lại, tuy nhiên, là cát, thỉnh thoảng mịn như bãi biển đã thành hình, lúc này chất thành đống cuồn cuộn ; đây những ngọn sóng gợn, kia những sóng cồn dài. Vậy đấy, điều kiện khí hậu cũng thay đổi. Mặt trời, đã mọc lên cao, no căng sương và mù, và sưởi ấm làn gió vuốt ve người lữ khách dưới tấm vải che; lúc gần lúc xa mặt trời đang tô màu cho trái đất bằng lớp màu trắng sữa nhạt, và tỏa ánh sáng lung linh khắp bầu trời.
Hơn hai giờ nưaz trôi qua mà không dừng nghỉ hay hay đi chệch hướng. Cây cỏ đã hoàn toàn biến mất. Cát, quá cứng trên bề mặt đến nỗi nó vỡ thành những đốm kêu lộp bộp dưới từng bước chân, thống trị. Ngọn Jebel đã xa khỏi tầm mắt, và không nhìn thấy bất cứ một mốc giới nào. Bóng phủ trước theo sau giờ chuyển về phía bắc, và thậm chí còn chạy đua cùng với những chủ thể phủ nó; và rồi chẳng còn dấu hiệu của sự lưỡng lự, cách điều khiển của người lữ khách mỡi lúc trở nên lạ lùng hơn.
Chẳng ai, xin hãy nhớ, tìm kiếm thú vui trên sa mạc. Cuộc sống và việc làm ăn đi lên nó những cung đường mà dọc theo đó những bộ xương của những vật chết chóc rải rác như những thứ tô điểm . Đó là những con đường từ giếng này tới giếng kia, từ đồng cỏ này tới đồng cỏ kia. Trái tim của vị tộc trưởng kỳ cựu nhất đập nhanh hơn khi ông nhận thấy mình đơn độc trên những lối đi không rõ phương hướng. vậy nên nhân vật mà ta đang hướng tới đây không thể nào ra sa mạc để tìm thú vui được; cung cách của anh ta cũng chẳng mang dang dấp của một người lánh nạn; không một lần anh ta ngoái lại phía sau. Trong những trường hợp như thế sợ hãi và hiếu kỳ thường là những cảm xúc phổ biến nhất; anh ta cũng chẳng hề bị chúng kích động. Khi con người cô độc, họ gắn với bất kỳ kẻ đồng hành nào; con chó trở thành một đồng chí, con ngựa trở thành một người bạn, và chẳng ngại ngùng tưới lên người chúng những cái vuốt ve và những lời nói đầy yêu thương. Con lạc đà không được nhận những cử chỉ ấy, không một cái vuốt ve, không một lời nói.
Chính xác vào buổi chiều con lạc đà một bướu, tự ý nó, dừng lại, và bật lên tiếng kêu la hay tiếng rên, quá thảm thương, bằng cách đó loài lạc đà kháng cự lại việc phải chở quá nặng, mà đôi lúc cần sự quan tâm và nghỉ ngơi. Chủ nhân vì thế giật mình, dần dần tỉnh giấc, khỏi cơn buồn ngủ. Anh ta vắt những tấm che giường lên, quan sát kỹ quang cảnh hai bên lâu và kỹ càng, như để phát hiện ra một nơi ổn thỏa. Hài lòng với việc quan xét, anh ta thở một hơi dài rồi gật đầu, như để nói “cuối cùng thì, cuối cùng thì!”. Một lát sau, anh ta đặt tay chéo trên ngực, cúi thấp đầu, và im lặng cầu nguyện. Nghĩa vụ ngoan đạo đã làm xong, anh ta chuẩn bị trèo khỏi lưng lạc đà. Từ cổ họng anh ta thoát ra một âm thanh chắc chắn những con lạc đà của Job nghe rõ — Ikh! Ikh!– ra hiệu quỳ xuống. Một cách chậm rãi con vật vâng lời, càu nhàu. Chủ nhân con vật sau đó đặt chân anh ta lên chiếc cổ duyên dáng, và bước xuống nền cát.
Mời đọc tiếp phần 2 tại đây: https://truyenjimmy.com/2020/07/ben-hur-boi-lew-wallace-quyen-1.html
Đọc bản tiếng Anh tại đây: https://www.gutenberg.org/files/2145/2145-h/2145-h.htm
3 replies to “BEN-HUR: Một truyện về đấng Christ (p.1)”