Người chết đuối đẹp trai nhất trần đời được nhà văn Gabriel Garcia Marquez viết vào năm 1968. Đây là một truyện ngắn đặc trưng cho dòng văn học hiện thực huyền ảo làm nên tên tuổi của nhà văn. Marquez đã tạo dựng lên một thế giới huyền bí và lộng lẫy từ thế giới của những hiện thực thông thường.
Những đứa trẻ đầu tiên trông thấy một vật trương phồng sẫm màu đang dật dờ dạt vào bờ nghĩ rằng đó là con tàu của kẻ thù. Sau đó chúng thấy rằng nó không có cờ hay cột buồm nên chúng nghĩ đó là một con cá voi. Nhưng khi nó trôi dạt hẳn vào bờ biển, chúng gỡ những cục rong biển, những tua sứa, và những xác cá cùng rác rưởi, và chỉ khi đó chúng mới thấy đây là một người đàn ông bị chết đuối.
Chúng chơi với anh ta cả buổi chiều, chôn anh ta dưới cát rồi đào anh ta lên, đến khi có người tình cờ trông thấy chúng và loan tin cho cả làng. Những người đàn ông khiêng anh ta đến ngôi nhà gần nhất nhận ra rằng anh ta nặng hơn bất cứ người chết nào mà họ đã từng biết, gần bằng một con ngựa, và họ nói với nhau rằng có lẽ do anh ta trôi nổi quá lâu và nước đã lọt vào tận xương anh ta. Khi họ đặt anh ta xuống dưới nền nhà họ nói anh ta cao hơn tất cả những người đàn ông khác bởi vì căn nhà không có đủ chỗ cho anh ta, nhưng họ nghĩ rằng có thể là do khả năng phát triển sau khi chết của một số người chết đuối nhất định. Anh ta sặc mùi của biển cả quanh mình và chỉ thông qua dáng hình người ta mới biết đây là cái xác người, bởi vì da đã bị những mảng bùn và vỏ sò bọc lấy.
Họ không cần phải lau sạch mặt anh ta mới biết người chết là một người đàn ông xa lạ. Ngôi làng gồm khoảng hai mươi có lẻ ngôi nhà gỗ có sân đá mà không có hoa và được trải dài tới tận cùng một mũi đất tựa sa mạc. Có quá ít đất nên các bà mẹ thường ngày đi lại với nỗi sợ hãi rằng gió sẽ thổi bay những đứa trẻ của mình và suốt chừng ấy năm một vài đứa trẻ chết đã phải ném xuống vực. Nhưng biển yên lặng và đầy sản vật và tất cả đám đàn ông ngồi vừa bảy con thuyền. Vì vậy khi họ tìm thấy người chết đuối này họ chỉ việc nhìn nhau là biết ngay ai trong số họ không có mặt.
Đêm đó họ không đi đánh bắt ngoài biển. Khi đám đàn ông đi sang những ngôi làng bên để hỏi xem có ai mất tích, đám đàn bà ở lại để săn sóc cho nguời chết. Họ cạo bỏ lớp bùn trên mặt anh ta bằng gạc cỏ, họ gỡ những viên đá cuội mắc vào tóc anh ta, và họ đánh vảy bùn bằng dụng cụ đánh vảy cá của họ. Khi họ làm họ nhận ra lớp thực vật bám trên người anh ta đến từ những đại dương xa xôi nơi con nước sâu và rằng quần áo anh ta mặc đã tả tơi hết cả, cứ như thể anh ta đã vượt qua những mê cung san hô. Họ cũng nhận thấy rằng anh ta chấp nhận cái chết với niềm tự hào, vì anh ta không có vẻ cô đơn của những người chết đuối khác trôi lên từ biển hay vẻ phờ phạc và nghèo túng cửa những người chết trên sông. Nhưng chỉ khi họ lau sạch sẽ người anh ta họ mới nhận biết được anh ta là loại người nào và họ ngừng thở. Không những anh ta là người cao nhất, khỏe mạnh nhất, sung sức nhất, và cơ bắp nhất mà họ từng thấy, và cho dù họ có đang ngắm nhìn anh ta thì trí tưởng tượng của họ cũng không đủ để hình dung ra anh.
Họ không thể tìm thấy một chiếc giường đủ lớn trong làng để đặt anh lên cũng không có nổi một chiếc bàn đủ chắc nào để anh dùng khi anh tỉnh dậy. Những chiếc quần mặc mùa lễ hội của người đàn ông cao nhất cũng chẳng vừa với anh, hay mấy chiếc áo cánh mặc vào ngày chủ nhật của những người béo khỏe nhất, cũng như đôi giầy của người có bàn chân to nhất. Quá đỗi kinh ngạc với khổ người to lớn và vẻ đẹp của anh, mấy người đàn bà lúc đó quyết định may quần cho anh từ mảnh vải buồm lớn và một chiếc áo cánh từ một số mảnh vải lanh dành cho cô dâu để anh có thể tiếp tục trải qua cái chết của mình với vẻ trang nghiêm. Khi họ may, họ ngồi vòng quanh và ngắm nhìn cái xác giữa những sợi chỉ, dường như với họ gió chưa bao giờ ngưng đọng đến vậy hay biển chưa từng ầm ĩ đến thế trong đêm đó và họ cho rằng sự thay đổi đó là có liên quan tới người chết. Họ nghĩ rằng nếu người đàn ông tuyệt đẹp đó từng sống ở làng mình, thì nhà của anh chắc phải có cánh cửa rộng nhất, trần nhà cao nhất, nền nhà chắc nhất, ván lót giường của anh có lẽ phải làm từ ván đóng tàu giữa được gắn với nhau bằng bu-lông sắt, và vợ anh có lẽ là một người phụ nữ hạnh phúc nhất trên đời. Họ nghĩ rằng anh có thể đã có quyền năng rằng anh có thể kéo cá ra khỏi biển khơi chỉ bằng cách gọi tên chúng và rằng anh đã dành rất nhiều công sức cày xới mảnh đất của mình để rồi những mạch nước ngầm tuôn trào từ những tảng đá để anh có thể trồng rất nhiều hoa trên những vách đá. Họ âm thầm so sánh anh với những ông chồng của họ, nghĩ rằng tất cả cuộc đời họ gộp lại cũng chẳng thể làm được những gì anh làm trong một buổi tối, và rốt cuộc họ chôn chặt những ông chồng ấy tận sâu trong trái tim mình như những người yếu đuối nhất, nhỏ nhen nhất và là những sinh vật vô dụng nhất trên quả đất này. Họ đang lang thang qua mê cung của trí tưởng tượng thì người đàn bà già nhất, là người lớn tuổi nhất nhìn người đàn ông chết đuối với niềm cảm thương hơn là đam mê, thở dài : “Anh ta có gương mặt của một người tên là Esteban.”
Thực là vậy. Hầu hết họ chỉ cần nhìn anh thêm một lần nữa là có thể thấy rằng anh không thể có cái tên nào khác. Người cố chấp hơn, những người trẻ nhất, vẫn còn giữ trong mình ảo tưởng khi họ mặc quần áo cho anh và đặt anh nằm giữa những bông hoa chân mang giầy da bóng cho rằng tên anh có lẽ là Lautaro. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng hão huyền. Không có đủ vải buồm, đôi ống quần được khâu cắt cẩu thả đã quá chật, và sức mạnh ẩn sâu trong trái tim anh đã bật tung mấy cái cúc trên áo anh. Sau nửa đêm tiếng rít của gió đã ngừng và biển rơi vào trạng thái uể oải ngày thứ tư của nó. Cái tĩnh lặng đã xua tan đi những hoài nghi còn sót lại: anh chính là Esteban. Những người đàn bà đã mặc quần áo cho anh, đã chải tóc cho anh, đã cắt móng cho anh và cạo râu cho anh đã không kiềm nổi nỗi thương hại trào dâng khi họ buộc lòng phải kéo dài thi thể anh trên đất. Chỉ đến khi đó họ mới hiểu được rằng anh đã thật khổ sở khi có thân hình cao lớn vì nó đã làm phiền anh thế nào kể cả sau cái chết của mình. Họ có thể thấy anh khi còn sống, khổ sở khi chui qua cánh cửa bên thế nào, chạm đầu vào xà ngang, đi thăm nhà ai cũng phải đứng, không biết làm gì với đôi bàn tay sư tử biển mềm mại, hồng hào, khi bà chủ nhà đi kiếm cái ghế chắc nhất và tha thiết mời anh, sợ đến chết, ngồi lên đó, Esteban, mời anh ngồi, và anh đứng dựa vào tường, mỉm cười, đừng bận tâm, thưa bà, tôi đứng đây được rồi, bàn chân anh mỏi nhừ và lưng anh nóng ran vì phải làm thế quá nhiều lần mỗi khi ghé thăm ai, đừng bận tâm, thưa bà, tôi đứng thế này ổn rồi, chỉ để tránh nỗi xấu hổ nếu làm gãy ghế, mà chẳng biết được có lẽ người nói đừng đi, Esteban, hãy ở lại đến khi cà phê pha xong, là người sau đó lẩm bẩm may quá thằng ngốc to xác ấy cuối cùng cũng đi rồi, khỏe quá, thằng ngốc điển trai ấy biến rồi. Đấy là những gì mà đám đàn bà nghĩ bên cạnh cái xác không lâu trước khi trời hửng đông. Sau đó, khi họ che mặt anh bằng chiếc khăn mu-xoa để ánh sáng khỏi làm phiền anh, trông anh tựa như đã đi vào cõi vĩnh hằng ngàn năm rồi, không sinh khí, tựa như những người đàn ông của họ đến nỗi dòng nước mắt đầu tiên ào ạt trong trái tim họ. Người bắt đầu bật khóc chính là một người trẻ nhất trong số những người trẻ tuổi. Những người khác, sắp sửa, đi từ tiếng thở dài tới khóc than, và họ càng nức nở thì họ càng muốn khóc, bởi vì người chết đuối với họ càng lúc càng trở thành Esteban, và thế là họ khóc quá chừng, vì anh là người đàn ông bần cùng hơn, bình tâm nhất, người sốt sắng nhất trên quả đất này, tội nghiệp Esteban. Vì vậy khi đám đàn ông trở về với tin rằng người chết đuối không phải người làng bên, đám đàn bà cảm nhận sự tươi khởi trào dâng trong nước mắt của họ: ” Tạ ơn Thượng Đế”, họ thở dài, ” anh ấy là người của chúng ta!”
Đấm đàn ông nghĩ rằng sự om sòm này chỉ là thói phù phiếm của đám đàn bà. Mệt mỏi vì những công việc khó nhọc ban đêm, tất cả họ muốn là thoát khỏi điều phiền toái từ con người xa lạ này một lần và mãi mãi trước khi mặt trời chiếu rực vào cái ngày không gió, khô hanh đó. Họ tức thì làm một cái cáng bằng mảnh vải buồm và mấy cây sào còn sót lại, buộc chúng lạ bằng dây thừng để nó có thể chịu được sức nặng của cái xác cho đến khi họ đến được vách đá. Họ muốn buộc anh ta vào mỏ neo của một tàu hàng để anh ta có thể dễ dàng chìm tới tận nơi những con sóng sâu nhất nơi cá bị mù và thợ lặn chết vì nỗi nhớ nhà, và những con nước khủng khiếp sẽ chẳng bao giờ mang anh ta trở lại bờ nữa, y hệt như những gì đã xảy ra với những cái xác khác. Nhưng họ càng khẩn trương bao nhiêu thì đám đàn bà lại nghĩ ra nhiều cách để trì hoãn thời gian. Họ đi lại như những con gà mái giật mình, ấn bùa biển vào ngực mình, một vài người chen ngang phía bên này để đặt bùa gió lành lên người đàn ông chết đuối, một vài người thì chen ngang phía bên kia đặt la bàn cầm tay lên người anh, và sau một hồi luẩn quẩn xua đám đàn ông, đám đàn bà , tránh đường , nhìn kìa, các bà suýt nữa làm tôi ngã lên trên người chết rồi đấy, đám đàn ông bắt đầu cảm thấy không còn tin vào những bà vợ của họ và họ bắt đầu cằn nhằn về việc tại sao lại có quá nhiều thứ trang trí đặt bàn thờ lại dành cho một người xa lạ, bởi vì cho dù có bao nhiêu móng tay và những bình nước thánh anh ta đeo trên người, mấy con cá mập cũng nhai anh ta vậy thôi, nhưng đám đàn bà vẫn chất đống mấy món đồ tế lễ lộn xộn, chạy tới chạy lui, vấp ngã, khi họ thở phào trút được những thứ họ không làm được với nước mắt, đến nỗi đám đàn ông cuối cùng phát bực vì chưa bao giờ lại có sự om sòm vì một cái xác chết trôi, một người chết đuối vô danh, một miếng thịt lạnh vào ngày thứ tư. Một trong số những người đàn bà, xấu hổ bởi sự vô tình quá đỗi, tức thì nhấc khăn mu xoa khỏi gương mặt người chết đuối và đám đàn ông chết lặng.
Anh đúng là Esteban. Không cần phải nhắc lại để họ nhận ra anh. Nếu họ được bảo rằng đó là ngài Walter Raleigh, ngay cả khi họ rất ấn tượng với giọng người ngoại quốc của ông, con vẹt đuôi dài trên vai ông, khẩu súng có miệng bắn chết người của ông, nhưng chỉ có thể có một Estaban trên cõi đời này và anh đang nằm đây, dang duỗi như một con cá voi đực, chân trần, mặc chiếc quần của một đứa trẻ thấp nhỏ, với móng tay chân cứng như đá phải dùng dao mới cắt được. Họ chỉ việc bỏ chiếc khăn mu xoa khỏi mặt anh để biết rằng anh xấu hổ, rằng đó không phải là lỗi của anh rằng anh quá khổ quá nặng hay quá đẹp trai, và nếu anh anh biết được rằng nếu điều này sẽ xảy ra, anh chắc phải tìm cho mình một chỗ kín đáo hơn để dìm mình xuống, thú thật là, tôi thậm chí sẽ buộc mỏ neo lấy từ thuyền buồm lớn vào cổ mình và lăn xuống khỏi vách đá như một kẻ chán đời để không làm phiền mọi người vào ngày thứ tư với cái xác này, như người ta thường nói, để không gây rắc rối cho bất cứ ai với đống thịt lạnh ngắt thối hoắc chẳng còn liên quan gì tới tôi nữa. Cách anh bày tỏ quá chân thành đến nỗi những người đàn ông hay nghi nhất, những người cảm nhận nỗi cơ cực của những đêm vô tận trên biển e sợ người đàn bà của họ sẽ không mơ về họ nữa mà bắt đầu mơ màng về những người đàn ông chết đuối, thậm chí ngay cả họ và những người khác cứng rắn hơn cũng rùng mình tận xương tủy trước sự chân thành của Esteban.
Đó là lí do họ tổ chức một tang lễ trang trọng dành cho một người chết đuối bị ruồng bỏ mà họ không bao giờ có thể hiểu được. Một vài người đàn bà chạy sang những ngôi làng bên hái hoa trở về với những người đàn bà khác có thể đã tin vào những gì mình được kể, và những người đàn bà đó chạy về nhà kiếm thêm hoa dành tặng người đàn ông chết đuối, và họ mang đến càng lúc càng nhiều đến nỗi có quá nhiều hoa và quá nhiều người đến nỗi không thể bước đi được nữa. Vào giây phút cuối cùng họ đau khổ khi phải trả anh lại với nước như một đứa trẻ mồ côi và họ chọn một người cha một người mẹ từ những người tốt nhất, và cả các dì, các chú, các anh em họ nữa, để rồi thông qua anh tất tật mọi cư dân của làng đều trở thành anh em bà con. Một vài người thủy thủ nghe thấy tiếng khóc từ đằng xa bẻ hướng lái và người ta nghe đồn rằng có một người đã buộc chặt thân mình vào cột buồm, gợi nhớ tới truyện về nàng tiên cá xa xưa. Khi họ tranh nhau có được vinh dự khiêng anh trên vai mình dọc theo lối dốc dưới chân vách đá, đàn ông và đàn bà lần đầu tiên cảm nhận được cảnh hiu quạnh nơi những con phố của họ, sự khô cằn nơi những sân nhỏ của họ, sự chật hẹp trong những giấc mơ của họ khi họ đứng trước vẻ lộng lẫy và vẻ đẹp của người chết đuối. Họ để anh đi mà không buộc mỏ neo để anh có thể quay trở lại nếu anh muốn và bất cứ khi nào anh muốn, và họ nín thở thật lâu khi thân thể anh rơi xuống vực biển sâu. Họ không cần phải nhìn nhau mới nhận ra rằng họ không còn hiện diện trọn vẹn nữa, rằng họ sẽ chẳng bao giờ. Nhưng họ cũng biết rằng mọi thứ sẽ thay đổi từ giờ trở đi, rằng những ngôi nhà của họ sẽ có những cánh cửa lớn hơn, trần nhà cao hơn, nền nhà chắc chắn hơn để ký ức của Esteban sẽ đi bất cứ đâu mà không đụng phải xà nhà và rằng không ai trong tương lai sẽ dám lẩm bẩm cái thằng ngốc to xác ấy cuối cùng cũng chết, chán thật, thằng ngốc đẹp trai ấy cuối cùng cũng chết, bởi vì họ sẽ sơn mặt trước nhà mình những màu sắc tươi vui để ký ức của Esteban bất tử và họ sẽ cúi đến gẫy lưng đào những mạch nước ngầm từ đá rồi trồng hoa trên những vách đá để những năm sau lúc hừng đông những hành khách trên những con tàu lớn thức giấc, nghẹt thở bởi hương thơm từ những ngôi vườn trên biển khơi, và thuyền trưởng sẽ bước xuống từ cây cầu trong bộ đồng phục của ngài, với thước trắc tinh, sao Bắc cực, và những huân chương chiến tranh của ngài và, chỉ tay về phía mõm đất trồng hoa hồng nổi lên ở phía chân trời, ông sẽ nói bằng mười bốn thứ tiếng, nhìn kìa, nơi nào gió thổi cực mạnh giờ đã đi vào giấc ngủ ở dưới những cái giường, ở phía đằng kia, nơi mặt trời sáng rực đến nỗi những bông hoa hướng dương không biết quay hướng nào, phải, ở phía đằng kia, đó là ngôi làng của Esteban.
Đọc bản tiếng Anh tại đây: https://www.ndsu.edu/pubweb/~cinichol/CreativeWriting/423/MarquezHandsomestDrownedMan.htm
2 replies to “Người chết đuối đẹp trai nhất trần đời bởi Gabriel Garcia Marquez”