Ngôi đền lửng ám: truyện quái đản Nhật Bản

Ngôi đền đó đã bị bỏ hoang lâu lắm rồi. Không ai qua lại cầu nguyện, khấn vái gì nữa. Nhưng rồi một ngày người ta nghe tiếng đàn, hát vọng ra từ chính bên trong ngôi đền. Chuyện quái gì đã xảy ra vậy?

mot ngoi den bi bo hoang
một ngôi đền bị bỏ hoang đã lâu

Trời đã khuya lắm rồi và các ngọn nến trong phòng đã tắt hết, ánh trăng rọi qua khung cửa sổ thách đố giấc ngủ của Ashitaro, một chàng samurai trẻ tuổi sống tại thành phố Kumamoto, phía nam nước Nhật, người đã ghìm nén nỗi đam mê câu cá của mình nhiều tháng nay vì trong lòng còn ghim chặt nỗi sợ hãi từ sự kiện bất ngờ xảy ra. Ashitaro trằn trọc nhìn lên trần nhà rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng của mình. Những kệ sách im lìm. Những bóng hình trong những bức tranh treo trên tường dường như đang nhảy múa. Người đầy tớ già đã ngủ gục trên bàn. Hơi gió lạnh từ khe cửa lùa tạt vào khiến người nằm trên giường run rẩy. Đến tận bây giờ Ashitaro cũng không thể tin được là cơn ác mộng ấy đã xảy đến với mình.

Buổi sáng hôm ấy, tiết trời thu se lạnh, không khí trong lành, Ashitaro, chuẩn bị một chiếc giỏ lớn và một cần câu, sẵn sàng lên đường ra con suối quen thuộc để thỏa mãn sở thích của mình. Vào cuối buổi chiều, anh ta gặp may hơn mọi ngày, khi nhìn xuống giỏ của mình, anh ta nhận thấy nó đầy ắp những cá. Rất sung sướng trước thắng lợi mình vừa thực hiện, anh ta bước đi về nhà mà lòng nhẹ bâng, dọc đường ngêu ngao những khúc hát tươi vui.

Trời đã nhá nhem tối khi anh ta tình cờ đi ngang qua một ngôi đền đã bị bỏ hoang. Anh ta nhận thấy rằng cửa đền hé mở một nửa, treo lủng lẳng trên tấm bản lề đã hoen mục, và toàn bộ chốn đó toát lên một vẻ xiêu vẹo chỉ chực đổ.

Nhưng điều làm người câu cá kinh ngạc nhất khi thấy, trái ngược hoàn toàn với bối cảnh hoang vắng xung quanh, một người thiếu nữ đang đứng ngay phía trong cổng ngôi đền.

Khi anh ta tiến lại thì cô gái cũng bước ra, rồi nhìn anh với một cái nhìn ẩn ý, mỉm cười, như thể mời gọi bắt chuyện. Chàng samurai nghĩ cung cách của cô ta có gì đó kỳ lạ, và lúc đầu có phần cảnh giác. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng bí ẩn nào đó đã ra lệnh cho anh ta dừng cảm nghĩ đó lại, và anh ta đứng thộn người, do dự, ngưỡng mộ gương mặt trẻ trung xinh đẹp, đang hé mở như một bông hoa trong môi trường héo hắt.

girl in front of temple
Sao qúi khách không vào bên trong?

Khi cô gái nhận thấy vẻ lưỡng lự của chàng samurai cô ra hiệu cho anh ta tiến lại gần mình. Vẻ duyên dáng và nụ cười cùng điệu bộ của cô thật không thể cưỡng từ, đến nỗi nửa tỉnh nửa mê, anh ta bước lên những bậc đá rong rêu, qua cánh cửa khép hờ, và đi vào sân nhỏ nơi cô gái đang đứng đợi mình.

Cô gái trẻ nhã nhặn cúi đầu chào, sau đó quay bước và dẫn lối trên con đừng trải sỏi rêu phong phủ đầy vào ngôi đền. Toàn bộ chốn đó trong một tình cảnh thảm hại, và nó trông như thể đã bị bỏ mặc nhiều năm.

Khi họ đến một nơi trước đây từng là nơi ở của một thầy tu, người samurai nhận thấy bên trong ngôi nhà đã được duy trì trong một tình trạng tốt hơn so với bên ngoài. Đi dọc lối hành lang bên ngoài bước vào phòng trước, anh ta nhận thấy tấm chiếu trải sàn vẫn còn chỉnh tề, và nhận thấy có bức bình phong sáu tấm trang trí căn phòng.

mot buc binh phong co Nhat Ban
một bức bình phong cổ 6 tấm người Nhật xưa dùng để trang trí phòng

“Có sư nào hiện tại sống ở đền không?” chàng trai trẻ hỏi.

“Không,” cô gái trả lời, hiện giờ không có sư sống ở đây. Mẹ em và em mới chuyển đến ngày hôm qua. Bà vừa sang làng bên để mua mấy thứ và có thể không về kịp tối nay. Nhưng xin mời quý khách nghỉ ngơi một lúc, để em đi chuẩn bị chút đồ uống cho quí khách.”

Cô gái nói rồi tha thướt đi vào trong bếp hình như là đi pha trà, nhưng dù cho thực khách đợi rất lâu, cô ta chẳng bao giờ quay lại.

Vào lúc trăng lên, và chiếu sáng vằng vặc vào căn phòng, cứ như thể là ánh sáng ban ngày. Chàng samurai bắt đầu băn khoăn về cách ứng xử kỳ lạ của người thiếu nữ, đã dẫn dụ anh ta đến một nơi để rồi biến mất và bỏ mặc anh ta một mình.

Đôt nhiên anh ta bỗng giật nảy mình bởi ai đó hắt xì rõ to phía sau tấm bình phong. Anh ta quay đầu về hướng tiếng động phát ra. Trước sự ngạc nhiên vô cùng, không phải là cô gái xinh đẹp mà anh ta đã ngóng đợi, nhưng một ông sư hói đầu, mặt đỏ bệ vệ bước ra. Ông ta chắc phải cao cớ bảy, tám thước, vì đầu ông ta gần như chạm trần nhà, và tay ông ta cầm khư khư một chiếc roi sắt trong tư thế hăm dọa.

“Sao ngươi dám vào nhà ta khi chưa được phép?” gã khổng lồ mặt phừng phừng sát khí quát tháo. ” Đi ngay nếu không muốn ta đánh cho tan nát.”

Hồn kinh phách lạc, chàng trai trẻ đứng phắt dậy, và ào ra cửa đền với tốc độ nhanh nhất có thể.

Khi anh ta chạy qua sân nhỏ anh ta nghe thấy một trang cười rõ to phía sau mình. Khi đã ở bên ngoài cổng anh ta dừng lại nghe ngóng, và tràng cười ấy vẫn tiếp tục. Bỗng nhiên, anh ta chợt nhớ ra rằng trong lúc mải chạy thoát thân, anh ta đã mất chiếc giỏ cá. Nó đã bị bỏ lại bên trong ngôi đền. Thật không thể diễn tả nổi sự thật vọng ấy, vì chưa bao giờ anh ta lại câu được nhiều cá đến vậy; nhưng lại thiếu can đảm để quay lại tìm nó, nên chẳng còn cách nào khác là về nhà với hai bàn tay không.

Ngày hôm sau anh ta kể lại kinh nghiệm lạ lùng cho một vài người bạn của mình. Tất cả bọn họ đều lấy làm buồn cười khi nghe về chuyến mạo hiểm đó, và một vài người nghĩ rằng người thiếu nữ quyến rũ và gã khổng lồ hung tợn chỉ là ảo giác chẳng qua là do hũ rượu sake mang lại.

Cuối cùng, một người có tài đánh kiếm, nói:

“Ôi, anh chắc hẳn là bị một con lửng thèm ăn cá của anh đánh lừa rồi. Không có ai sống ở ngôi đền đó cả. Tôi nhớ là nó đã bị bỏ hoang lâu lắm rồi. Tôi sẽ đến đó vào sáng mai và kết thúc mối nguy hại này.”

Anh ta sau đó đến một cửa tiệm bán cá, mua một chiếc giỏ lớn đựng đầy cá trong đó, và mượn một chiếc cần câu. Có đầy đủ dụng cụ rồi, anh ta nóng lòng mong trời tối. Khi màn đêm bắt đầu buông xuống anh ta giắt kiếmvào người và đi tới ngôi đền, cẩn thận đeo trên vai mình mồi nhử làm kế trừ khử con lửng đó. Anh ta mỉm cười trong lòng đầy tự tin, nói: “Mình sẽ dạy cho lão già đó một bài học!”

lung duoc phac hoa nhu ke lua gat
Con lửng được phác họa là kẻ lừa đảo trong văn học Nhật cổ

Khi anh ta lại gần ngôi đền xập xệ, anh ta ngạc nhiên khi trông thấy, không chỉ một, mà là ba cô gái đang đứng đó.

“Ô, hô! gió thổi nhầm hướng rồi sao, nhưng kẻ tội lỗi già nua xảo quyệt ấy sẽ không dễ gì mà lừa được ta.”

Ngay khi anh ta nhìn thấy bộ ba xinh đẹp thì bằng những cử chỉ họ mời anh ta vào. Không một chút do dự, anh ta theo họ bước vào bên trong ngôi đền, và táo bạo tự ngồi xuống dưới tấm chiếu. Họ đặt trà và bánh ngọt trước mặt anh ta, rồi mang tới một bình rượu ngon cùng với một chiếc chén to bất thường.

Người kiếm sĩ không dùng trà cũng không dùng bánh hay sake, và trừng trừng quan sát hành động của ba cô gái.

Nhận thấy vị khách chối từ đồ uống được mời, cô gái xinh đẹp nhất trong số họ chân thành hỏi:

“Sao ngài không dùng một chút sake nhỉ?”

“Ta không thích trà cũng như sake,” vị khách dũng cảm trả lời,”nhưng nếu cô có tài nghệ gì đó để mua vui cho ta, nếu cô có thể múa hay hát, ta sẽ thích thú được xem cô biểu diễn.”

“Ôi chao, ngài quả thực là một người lỗi thời! Nếu ngài không uống rượu, chắc chắn ngài cũng chẳng biết gì về chuyện yêu đương cả. Sống thế thì thật là chán ngắt! Nhưng nếu chúng em có thể nhảy múa chút xíu, vì vậy mong ngài chiếu cố ngồi xem, chúng em sẽ rất sung sướng được mua vui cho ngài với chút tài mọn của mình.”

Nói rồi ba cô gái mở quạt và bắt đầu lấy tư thế và múa. Họ trình diễn quá điệu nghệ và duyên dáng, đến nỗi người kiếm sĩ phải kinh ngạc, vì thật hiếm khi mới thấy các cô gái ở vùng thôn quê khéo léo và điêu luyện đến thế. Khi anh ta ngắm nhìn họ anh ta càng cảm thấy bị cuốn hút, và dần dà quên bẵng mất mục đích chuyến đi của mình.

ba co gai mua quat 1

Chìm đắm trong sự thán phục, anh ta theo họ từng bước, từng chuyển động, và như những người kể chuyện Nhật Bản nói, anh ta hoàn toàn quên mất cả bản thân mình, mê muội trước cái đẹp mà bộ ba đang phô diễn.

Bỗng nhiên anh ta trông thấy ba nghệ sĩ đã trở thành ba kẻ không đầu! kinh ngạc hết mức, anh ta nhìn họ chằm chằm để chắc chắn rằng mình không nằm mộng. Nhìn kìa! Nhìn kìa! mỗi người họ đang cầm chính cái đầu của mình trên tay. Rồi họ ném chúng lên và bắt chúng khi chúng rơi. Như những đứa trẻ chơi bóng, họ tung đầu mình cho nhau. Cuối cùng người táo bạo nhất trong số họ ném đầu mình vào người khách mang kiếm. Nó rơi xuống gót chân anh ta, ngước nhìn lên mặt anh ta, và cười chế giễu. Tức giận trước sự vô lễ của ả yêu tinh, anh ta quăng cái đầu trở lại trong sự ghê tởm, rồi rút kiếm của mình ra, đi một vài đường để chặt hạ ả khi ả lượn lờ vòng quay trêu trọc, tung lên rồi bắt lấy cái đầu của mình.

ba co gai khong dau

Nhưng ả quá nhanh so với tài của người kiếm sĩ, và như tia chớp thoát khỏi tầm chém của thanh gươm.

“Sao chàng không bắt em?” ả yêu tinh bỡn cợt hỏi. Bị mất thể diện trước thất bại, anh ta thực hiện một đường gươm tuyệt vọng khác, nhưng một lần nữa ả yêu tinh khéo léo né được, rồi bật lên trên đỉnh của bức bình phong.

“Em ở đây! Lần này chàng không thể bắt được em ư?” rồi cô ả cười hả hê.

Một lần nữa người kiếm sĩ tìm cách đâm ả, nhưng ả chứng tỏ mình cao tay hơn đối thủ, và lần nữa, lần thứ ba, anh ta bị đánh bại.

Sau đó ba cô ả liệng những cái đầu vào những chiếc cổ tương ứng, lắc chúng trước mặt đối thủ, rồi biến mất khỏi tầm mắt cùng với những tiếng cười man trá.

Khi chàng trai trẻ lấy lại thần hồn của mình anh ta lướt mắt nhìn quanh. Ánh trăng sáng đang chiếu khắp phòng, và sự tĩnh lặng của nửa đêm bị phá vỡ vì tiếng kêu rả rích của côn trùng. Anh ta run rẩy khi nhận ra rằng thời khắc muộn và nỗi vắng vẻ hoang vu tại ngôi đền huyền bí đó. Cái giỏ cá đầy ắp của anh ta nhìn đâu cũng không thấy. Anh ta hiểu rằng, anh ta, cũng đã bị con lửng yêu tinh đặt bùa chú, và cũng như bạn mình, người mà anh ta đã cười nhạo sặc sụa ngày trước đó, anh ta cũng bị quyến rũ bởi con vật xảo quyệt.

Nhưng, mặc dù vô cùng buồn bực trước việc bị lừa lọc bởi mánh khóe đơn giản đó, anh ta cũng chẳng thể nào mà hành động báo thù gì được. Điều tốt nhất mà anh ta có thể làm là chấp nhận thất bại của mình và trở về nhà.

Trong số những bạn bè của mình có một người làm thầy thuốc, người này không những là một người can đảm, mà còn thông minh, lắm mưu mẹo. Khi nghe về cách thức mà người kiếm sĩ bị lừa gạt, anh ta nói:

“Cứ để việc này cho tôi. Nội trong ba ngày tôi sẽ bắt được con lửng già này và trừng trị nó thích đáng để nó hết thói bày trò mưu ma chước quỉ.”

Người thầy thuốc về nhà chuẩn bị món món ăn ngon nấu với thịt. Trong đó anh ta trộn lẫn thuốc độc chết người vào. Rồi sau đó anh ta nấu phần ăn cho mình. Mang theo những khẩu phần ăn riêng biệt này, đợi lúc trời tối anh ta cất bước tới ngôi đền đổ nát.

Khi anh ta tới sân nhỏ phủ đầy rêu của ngôi đền anh ta cảm nhận nỗi hiu quạnh và vắng vẻ của nó. Theo những kinh nghiệm của hai người bạn trước, anh ta tìm đường vào phòng của sư ông, cực kỳ nóng lòng muốn biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, nhưng, trái ngược lại với mong đợi của mình, tất cả đều trống vắng và tĩnh lặng. Anh ta biết rằng lửng yêu tinh là những con vật mưu trá đến nỗi hầu hết mọi người, dù có cẩn trọng đến mấy, cũng khó có thể hóa giải được những cái bẫy và ảo ảnh do chúng giăng ra. Nhưng anh ta quyết tâm giữ vững tâm trí và duy trì cảnh giác, để không biến thành con mồi cho bất kỳ ảo giác nào mà con lửng có thể tung ra.

Đêm hôm đó thật đẹp, và im lìm như những ngôi mộ trong nghĩa trang tại đền. Vầng trăng tròn đầy chiếu sáng trên mái nhà đen nghiêng nghiêng, và trải một dòng ánh sáng vào căn phòng nơi người thầy thuốc đang kiên nhẫn ngồi đợi kẻ thù bí ẩn. Giây phút chầm chậm trôi qua, một giờ đã vụt bay, mà không có vị khách ma mãnh nào xuất hiện. Cuối cùng kẻ tự tiện xông vào nhà đặt bình rượu của anh ta xuống trước mặt mình và bắt đầu sửa soạn bữa tối, nghĩ rằng có thể con lửng sẽ chẳng thể nào từ chối được mùi thơm quyến rũ của thức ăn.

“Không gì như nỗi quạnh hiu,” anh ta cất giọng xúc cảm nói lớn.” Đêm nay mới tuyệt làm sao! Ta thật may mắn khi tìm thấy ngôi đền bị bỏ hoang này để ngắm dòng thác bạc từ ánh trăng mùa thu.”

Rồi anh ta tiếp tục ăn và uống được một lát, chép miệng như một người sành ăn dân dã đang tận hưởng bữa ăn của mình. Anh ta bắt đầu nghĩ rằng con lửng, biết đã tìm thấy một đối thủ ngang tầm, có ý định để mặc anh ta. Lát sau, khi nghe tiếng bước chân, anh ta khấp khởi mừng thầm. Anh ta đưa mắt nhìn lối vào phòng, mong đợi lão yêu tinh già hóa trang như mọi khi, và một cô em trẻ đẹp nào đó sẽ xuất hiện để bỏ bùa mình bằng những cử chỉ gợi cảm.

Thế nhưng, anh ta kinh ngạc, người đến lại gần chẳng phải là một cô thôn nữ lả lướt, thướt tha, sóng mắt đẩy đưa mà là một sư lão, lê bước vào phòng với những bước đi loạng choạng và ngồi phịch xuống chiếu với tiếng thở dài mệt mỏi. Nhìn vẻ ngoài chừng giữa bảy mươi và tám mươi, quần áo ông ta mặc đã cũ nát, tả tơi, và trên hai bàn tay nhăn nheo ông ta mang theo một tràng hạt. Sức lực đã được dùng hết để leo lên mấy bậc cầu thang, ông ta thở hắt ra và dường như ở trong một tình trạng kiệt sức. Toàn bộ vẻ bề ngoài của sư lão dấy lên nỗi thương hại nơi người đối diện.

“Xin phép được biết danh tính của lão?” người thầy thuốc hỏi.

Lão sư trả lời bằng một giọng rung rung, “Lão là nhà sư nhiều năm về trước từng sống ở đây khi ngôi đền còn trong tình trạng phồn vinh. Lúc còn trẻ lão được giáo huấn bởi một sư trụ trì lúc bấy giờ, từ lúc tuổi còn thơ cha mẹ lão đã dẫn lão đến tu ở chùa để thờ phượng đức Phật. Vào thời điểm Saigo nổi loạn lão đến tu ở địa phương khác. Khi cung điện của ở Kumamoto bị chiếm đóng, trời ơi! ngôi đền của lão cũng bị đốt trụi. Rất nhiều năm lão tha phương hết từ nơi này đến nơi khác và đã chịu nhiều gian khổ. Ở vào lúc tuổi già và gặp nhiều bất hạnh trái tim lão cuối cùng mong mỏi muốn được quay trở lại ngôi đền này, nơi lão đã có nhiều năm làm một chú tiểu hạnh phúc. Lão hy vọng mình có thể dành những ngày cuối đời tại đây. Anh có thể tưởng tượng được nỗi đau đớn của lão khi thấy nó bị bỏ hoang hoàn toàn, chìm trong mục nát, chẳng có sư sãi nào khấn vái đức Phật mỗi ngày, hay sửa sang lại bàn thờ cho những người được chôn cất ở đây. Giờ thì ước nguyện duy nhất của lão là quyên góp đủ tiền để phục dựng lại ngôi đền. Nhưng than ôi! tuổi già và bệnh tật và đi tìm cái ăn đã bòn rút hết sức lực của lão, và lão sợ rằng lão chẳng bao giờ có thể đạt được những gì đã vạch ra,” nói đến đây sư lão khuỵu xuống và nước mắt tuôn rơi–một cảnh tượng thật đáng thương.

Khi đang chùi mắt mình bằng vạt áo của chiếc áo choàng đã suột chỉ, lão nhìn hau háu và đồ ăn và rượu mà người thầy thuốc đang thưởng thức một mình, rồi nói thêm, một cách thèm muốn:

“Ah, lão thấy anh có đồ ăn ngon và cả rượu nhắm nữa, mà anh vừa ăn vừa thưởng ngoạn ánh trăng. Lão xin anh chia sẻ cho một chút, vì đã rất nhiều ngày rồi lão chưa được một bữa tử tế và lão đang chết vì đói đây.”

Lúc đầu, người thầy thuốc bị thuyết phục rằng câu chuyện mà lão kể là có thật, lời lẽ nghe quá hợp lý, và trái tim anh ta tràn đầy lòng thương cảm cho nhà sư già. Anh ta lắng nghe cho đến khi lời tường thuật đau buồn kết thúc.

Nhưng có gì đó trong giọng kể của lão khi đến tai anh ta nghe chẳng giống giọng người, và anh ta suy nghĩ. “Đây có thể là con lửng! Ta không được để nó lừa phỉnh mình! Con vật xảo quyệt gian trá này đang đánh lừa mình bằng mưu mẹo của nó, nhưng nó sẽ thấy mình cũng thông minh như nó vậy.”

Anh ta giả bộ như tin vào câu chuyện của lão già, và trả lời:

“Thực vậy, tôi cảm thông sâu sắc với những bất hạnh của lão. Mời lão cứ tự nhiên chia sẻ bữa ăn cùng tôi–không, tôi sẽ mời lão phần đồ ngon còn lại, hơn thế nữa, tôi hứa sẽ mang đến thêm cho lão vào ngày mai. Tôi sẽ thông báo cho bạn bè và người thân quen của mình về kế hoạch phục dựng ngôi đền của lão, và sẽ giúp đỡ lão hết sức trong mọi khả năng của mình cho việc quyên góp.” Anh ta sau đó đẩy đĩa thức ăn chưa đụng đũa về phía lão già, phần có chứa thuốc độc, rồi đứng dậy khỏi tấm chiếu, xin phép cáo lui, hứa hẹn sẽ trở lại vào tối mai.

Tất cả bạn bè của người thầy thuốc đã nghe anh ta khoe khoang sẽ đánh bạ được con lửng đến thăm vào sáng hôm sau, tò mò muốn biết chuyện gì đã xảy ra với anh ta. Rất nhiều trong số họ hoài nghi về chuyện lửng yêu tinh có tài lừa gạt, và đổ tại cho những ảo tưởng của bạn mình là do rượu sake.

Người thầy thuốc nín thinh trước nhiều câu nghi vấn của bạn bè, nhưng vui vẻ mời họ tháp tùng anh ta.

“Hãy tự mình đi mà xem,” anh ta nói, và dẫn đường họ tới ngôi đền cũ, hiện trường xảy ra nhiều vụ việc ma quái.

Đầu tiên họ lục soát hết căn phòng nơi bạn mình đã ngồi tối trước, nhưng chẳng tìm thấy gì ngoài cái giỏ cá trống không trong đó có đựng đồ ăn cho người giăng bẫy và con lửng. Họ tiếp tục sục sạo kỹ lưỡng toàn bộ chốn đó, và cuối cùng, trong một góc tối của phòng chính điện, họ phát hiện ra xác chết của một con lửng già. Nó có cỡ của một thân con chó lớn, và tóc của nó đã bạc xám vì tuổi tác. Mọi người đều đồng ý rằng con lửng này có lẽ đã thọ được đến vài trăm năm.

Người thầy thuốc vác nó về nhà trong vui mừng chiến thắng. Trong khoảng vài ngày người dân quanh vùng lũ lượt đến xem xác con vật có lông bạc xám, và nghe những câu chuyện trong kinh ngạc và sợ hãi của nhieuf người đã từng bị con lửng yêu tinh dụ dỗ và lừa bịp bằng phép thuật của nó.

Người viết nhân đây cũng thêm vào một câu chuyện lửng ám khác được kể có liên quan đến ngôi đền đó. Rất nhiều người già trong giáo khu nhớ lại vụ việc, và một trong số họ thuật lại truyện như sau.

Nhiều năm trước đây, khi ngôi đền linh thiêng còn ở trong tình trạng sung túc, sư trụ trì khai mở mùa lễ Phật, kéo dài một số ngày. Trong số những người trẻ đến tham gia nghi lễ, ông để ý thấy có một chàng trai khôi ngô, chăm chú lắng nghe đạo pháp, rất khác thường so với những thanh niên khác. Khi lễ hội đã hết và những phật tử đã đi về, chàng trai vẫn còn vẩn vương quanh ngôi đến như thể không muốn rời chốn linh thiêng. Sư trụ trì, đã có chút thiện cảm với vị khách trẻ tuổi, nhận xét từ vẻ ngoài chỉn chu và đĩnh đạc, cho rằng chàng trai chắc chắn phải là con trai một gia đình thuộc tầng lớp samurai, có thể có ý nguyện muốn theo đời tu hành.

Hài lòng với tấm thiện tình ngoan đạo nơi chàng trai trẻ, sư ông mời chàng về phòng làm việc của mình, rồi giảng giải cho chàng một số những giáo lý nhà Phật. Chàng trai toàn tâm chú ý lắng nghe bài giảng đạo uyên bác trong suốt buổi chiều, và liên tục cảm ơn nhà sư đã hạ cố mà giảng pháp cho một kẻ không xứng như chàng.

Buổi chiều qua đi và giờ dùng bữa tối đã đến. Sư trụ trì sai nấu một bát mỳ dành cho quí khách, người đã chứng tỏ mình có sức ăn phi thường, gấp ba lần một người trưởng thành.

Chàng trai sau đó lịch sự cúi đầu chào và xin phép ra về. Khi chào tạm biệt, sư trụ trì, cảm nhận được chút ngưỡng mộ với chàng trai trẻ, đã tặng anh ta một chiếc hộp đựng thuốc sơn mài mạ vàng như món quà chia tay.

Chàng trai cúi đầu cảm tạ, rồi lên đường về nhà.

Hôm sau người làm trong chùa, khi đang quét sân, thì bắt gặp một con lửng. Nó đã chết từ lâu, và khoác trên người nó mọt tấm áo rơm được sắp xếp như thể áo người. Bên cạnh nó là một chiếc hộp mạ vàng, và bụng của nó căng phồng và tròn như một cái tô lớn. Rõ ràng là tính háu ăn của con vật đã giết chết nó, và sư trụ trì, khi trông thấy nó, xác định chiếc hộp chính là vật mà ông đã tặng chàng trai trẻ ngày hôm qua, và biết rằng mình là nạn nhân bị dụ dỗ bởi mưu mẹo của một con lửng.

Chắc chắn một điều rằng ngôi đền đã bị một cặp lửng yêu tinh ám, và khi con này chết, bạn tình của nó tiếp tục sống trong ngôi đền sau khi nó bị bỏ hoang. Con vật rõ ràng đã ham thích việc bày trò lừa phỉnh người đi bộ và khách hành hương qua ngôi đền, hay bất cứ ai mang theo đồ ăn ngon cùng họ, và trong khi làm họ hoang mang với ảo giác và chiêu trò, đã khéo léo ăn vụng giỏ đựng cá hay hộp đựng thức ăn của họ, và sống sung túc bằng đồ trộm được.


Xem truyện bằng tiếng Anh tại đây: https://www.gutenberg.org/files/45933/45933-h/45933-h.htm#THE_BADGER-HAUNTED_TEMPLE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *