RASHOMON: đói nghèo hay tội lỗi.

Rashomon là một truyện ngắn của nhà văn Ryūnosuke Akutagawa dựa trên những câu chuyện từ tuyển tập Konjaku Monogatarishū.

Rashomon cũng là tên một bộ phim của đạo diễn Akira Kurosawa được dựng năm 1950.

Roshomon (1950) của đạo diễn Akira Kurosawa
quang cảnh phim trường Roshomon (1950) của đạo diễn Akira Kurosawa

Đó là một đêm lạnh lẽo. Một người hầu của một samurai đứng dưới một cổng thành, đợi cho cơn mưa ngớt.

Trên cái cột dày, một làn sơn đỏ bị cào xước chỗ này chỗ kia, một con dế ló đầu ra. Vì cổng thành này tọa lạc trên đại lộ Sujaku, ít nhất một vài người khác, đội nón rơm hay mũ trùm đầu của giới quí tộc, được cho là sẽ đứng ở đó trú bão trong cơn mưa. Nhưng không có ai lại gần trừ người đàn ông này.  

Bởi vì trong mấy năm trở lại đây kinh thành Kyoto đã trải qua một loạt những thảm họa, động đất, gió lốc, và hỏa hoạn, do đó Kyoto đã bị tàn phá đến mức độ không nhận ra nữa. Những tích cũ có kể lại rằng những mảnh vỡ của tượng Phật và những vật nhà Phật khác, với tranh sơn mài, vàng, bạc lá, đã bị chất đống trên đường cái quan rao bán như củi gỗ. Do tình trạng nội sự xảy ra ở Kyoto, sửa chữa cổng thành là việc không được bàn tính đến. Lợi dụng sự tàn phá này, cáo và những con vật hoang dại khác đã đến những đống đổ nát nơi cổng thành làm nơi trú ẩn, cộng thêm cả những tên trộm và cướp cũng biến nơi đó thành nhà nữa. Dần dà việc mang những cái xác vô danh tới cổng thành rồi chất đống ở đó là việc bình thường. Sau khi trời tối thì nó quá nhiều ma đến nỗi không ai dám bén mảng lại gần.

Hàng đàn quạ không biết từ đâu bay đến. Vào buổi ban ngày những con chim kêu quạ quạ này lượn những vòng xung quanh mái trên của cổng thành. Khi bầu trời trên đầu chuyển đỏ sau ánh nắng cuối cùng của mặt trời đã tắt, chúng trông vô số như những hạt mè bay lượn khắp cổng. Nhưng vào ngày hôm đó không có đến bóng dáng của một con quạ, có lẽ là bởi vì giờ tối muộn. Đó đây những bậc thềm bằng đá, bắt đầu rung lắc, với hàng cỏ mọc trong những khe hở của chúng, được điểm xuyến bằng những vệt đốm trắng từ chất thải của đám quạ. Người hầu, trong bộ quần áo kimono màu xanh đã rách, ngồi trên bậc thềm số bảy cao nhất, lơ đãng ngắm nhìn trời mưa. Sự chú ý của anh ta đặt trên chiếc mụn to khó chịu ngay bên má phải của mình.

Như đã nói ở trên, người hầu này đang đợi một cơn mưa ngớt. Nhưng anh ta không hề có ý định cụ thể sẽ làm gì sau khi trời hết mưa. Theo lẽ thường thì, đương nhiên, anh ta sẽ chạy về nhà chủ mình, nhưng anh ta vừa bị cho nghỉ việc ngay trước đó. Kinh thành Kyoto đã suy giảm sự thịnh vượng của nó một cách nhanh chóng, và anh ta lại mới bị chủ cho nghỉ việc, người mà anh ta đã theo hầu nhiều năm, vì hậu quả của sự suy vượng này. Vậy nên, bủa vây trong cơn mưa, anh ta hoàn toàn lạc lối không biết đi đâu. Và thời tiết chẳng dính dáng chút gì tới tâm trạng buồn rầu của anh ta. Có vẻ như trời chẳng dừng mưa. Anh ta bị cuốn đi theo dòng suy tưởng của mình làm thế nào để sống sót vào ngày mai, những ý nghĩ vô dụng chẳng ăn nhập gì quả quyết một số phận không mủi lòng. Bâng quơ, anh ta lắng nghe những giọt mưa rơi lộp độp trên đại lộ Sujaku.

Cơn mưa, đang bao phủ lên cổng thành, hợp sức lại và trút xuống với một âm thanh ầm ầm có thể nghe thấy từ đằng xa. Nhìn lên trên, anh ta trông thấy một đám mây đen lừng lững đang treo trên đầu những viên gạch mái ngói của cổng thành.

Anh ta cũng chẳng có nhiều phương cách, dù là tốt đẹp hay xấu xa, bởi vì hoàn cảnh éo le của anh ta. Nếu anh ta chọn con đường thiện lương, anh ta chắc chắn sẽ đói lả đến chết bên cạnh bức tường hay trong đám bùn sình ở Sujaku. Anh ta sẽ được mang đến cổng này và bị quẳng vào đống xác như một con chó hoang. Nếu anh ta quyết định ăn trộm…Tâm trí anh ta, sau khi nghĩ tới nghĩ lui theo con đường hư đạo ấy, cuối cùng quyết định rằng anh ta sẽ làm thằng ăn trộm.

Nhưng những nghi ngờ quay trở lại hết lần này đến lần khác. Dù quả quyết rằng anh ta không có sự lựa chọn nào, anh ta vẫn không thể tập hợp được hết can đảm để biện minh cho quyết định rằng anh ta phải trở thành một kẻ trộm.

Sau một hồi hắt xì to tướng anh ta chậm rãi đứng dậy. Làn hơi lạnh buổi tối của Kyoto làm anh ta nhớ đến hơi ấm của một lò than. Làn gió trong bóng tối hú qua những cột của cổng thành. Con dế đậu trên chiếc cột sơn đỏ đã biến mất từ thuở nào.

Thụp cổ mình xuống, anh ta nhìn quanh cổng, rúm ró hai vai trong chiếc áo kimono màu xanh mặc bên ngoài lớp áo lót mỏng dính trên người. Anh ta quyết định ở lại bữa tối đó, nếu anh ta có thể tìm thấy một góc kín che chắn khỏi mưa và gió. Anh ta tìm thấy một cầu thang sơn mài dẫn lên một cái tháp trên cổng thành. Sẽ không có ai lên đó, trừ người chết, nếu có. Thế nên, chắc mẩm là thanh gươm bên cạnh mình không lọt ra ngoài vỏ, anh ta đặt chân lên bậc thấp nhất của cầu thang.

Một vài giây sau, đi được nửa cầu thang, anh ta thấy có sự chuyển động bên trên. Nín hơi thở lại và rón rén như một con mèo giữa những bậc thang rộng dẫn lên tháp, anh ta xem xét và chờ đợi. Một chút ánh sáng từ phần trên của tháp chiếu nhạt nhòa trên má phải của anh ta. Đó là gò má có cái mụn đỏ, đang mưng mủ nhìn thấy được dưới những sợi râu xô lệch của anh ta. Anh ta đã nghĩ rằng chỉ có người chết mới ở bên trong tháp, nhưng chỉ bước lên vài bước nữa anh ta để ý thấy có một ngọn lửa ở trên, và một người đang đi lại quanh nó. Anh ta nhìn thấy một ngọn lửa vàng yếu ớt, nổ tí tách làm cho mạng nhện treo trên trần nhà trở nên ma mị. Loại người nào mà lại có thể châm lửa ở Rashomon…và trong một cơn bão? Kẻ không biết, kẻ xấu xa làm anh ta khiếp sợ.

Nhẹ nhàng như một con thạch sùng, người hầu leo lên đến đỉnh của các bậc cầu thang. Núp mình trên hai tay hai chân, rồi rướn cái cổ càng xa càng tốt, anh ta rụt rè nhìn vào trong tháp.

Như lời đồn đại, anh ta tìm thấy một vài xác chết bị ném một cách bất cẩn khắp sàn nhà. Vì ánh sáng không đủ, anh ta không thể đếm được. Anh ta chỉ có thể thấy một vài người bị lột trần và một vài người còn quần áo. Một vài người trong số họ là phụ nữ, và tất cả họ lăn lóc trên sàn nhà với cái miệng mở hay những cánh tay của họ duỗi dài chẳng mang biểu hiện nào ngoài những con búp bê bằng đất. Người ta có lẽ đã nghi ngờ liệu họ đã từng sống, như giờ đây họ câm lặng vĩnh hằng. Những bờ vai, bộ ngực, nửa thân trên của họ dưới ánh sáng mờ nhạt; một số bộ phận biến mất trong bóng tối. Mùi hôi thối bốc lên từ những cái xác khiến anh ta phải lấy tay bịt miệng mình lại.

Giây phút tiếp theo cánh tay anh ta rũ xuống và anh ta nhìn chằm chằm. Anh ta bắt gặp được hình ảnh một hình thù của con ma cúi gập trên một cái xác. Nó có vẻ như là hình dáng của một bà già, hốc hác, tóc bạc, và giống nữ tu sĩ. Với một bó đuốc bằng thông khô trên tay phải, bà ta đang xoi rọi một khuôn mặt của một xác chết có mái tóc đen dài”

Nỗi khiếp sợ lẫn chiếm đầu óc anh ta nhiều hơn sự tò mò, anh ta thậm chí còn quyên cả thở trong một lúc lâu. Anh ta cảm thấy những sợi tóc trên đầu mình và trên người mình dựng đứng hết cả lên. Khi anh ta nhìn, khiếp sợ, bà ta huơ huơ ngọn đuốc giữa hai tấm sàn nhà, đặt tay lên trên đầu của cái xác, bắt đầu bứt những sợi tóc dài từng cái một, như một con khỉ bắt những con rận cho con của nó.

Tóc được bứt ra nhẹ nhàng cùng sự chuyển động của đôi bàn tay của bà già.

Khi những sợi tóc được nhổ ra, nỗi sợ hãi trong trái tim anh ta biến mất, và nỗi căm phận về bà già chất đống. Nó lớn vượt cả sự căm phẫn trở thành nỗi ác cảm chống lại tất cả mọi xấu xa. Ngay lúc ấy nếu có ai đó đưa ra câu hỏi liệu anh ta có nên nhịn đói tới chết hay trở thành một thằng ăn trộm – câu hỏi đã xuất hiện trong anh ta cách đây ít lâu – anh ta sẽ không ngần ngại chọn cái chết. Nỗi tức giận trước cái ác phà ra như một mẩu gỗ thông mà bà già đã cắm nó xuống sàn nhà.

Anh ta không biết tại sao bà già lại nhổ những sợi tóc của người đã chết. Do vậy, anh ta không biết liệu trường hợp của bà ta có nên đặt cho là xấu hay tốt. Nhưng trong con mắt anh ta, nhổ tóc của người đã chết ở cổng thành trong đêm mưa bão thế này là một tội lỗi không thể tha thứ được. Tất nhiên nó chưa bao giờ xảy ra trong suy nghĩ của anh ta rằng cách đây ít lâu thôi anh ta nghĩ đến khả năng đi ăn trộm.

Thế rồi, tập trunh hết sức mạnh vào hai chân, anh ta đứng dậy từ các bậc thang rồi bước dài, tay đặt lên kiếm, ngay chính giữa sinh vật già nua đó. Mụ già xấu xí quay lại, nỗi sợ hãi hiện lên trong mắt mụ, và bật dậy khỏi sàn nhà, run rẩy. Bà ta dừng lại trong tích tắc, lấy cân bằng, rồi lao mình tới bậc cầu thang với một tiếng kêu thét.

“Mụ già kia! Mụ đi đâu thế?” anh ta quát lên, chặn ngang đường bà già đang run bần bật đang tìm cách lách khỏi người anh ta. Nhưng mụ già xấu xí vẫn muốn lăn trườn tìm lối ra. Anh ta đẩy bà ta trở lại để ngăn bà ta…họ vật lộn, ngã giữa đống xác người, và tiếp tục vật lộn ở đó. Ngay tắp lự anh ta nắm lấy tay bà già, vặn nó, và đè bà ta xuống sàn nhà. Cánh tay của bà ta chỉ có da và xương, chẳng còn tý tẹo thịt nào trong đó như những mẩu xương gà. Ngay khi bà già bị đè xuống sàn nhà anh ta rút thanh gươm của mình ra và dí đường gươm sáng như ánh bạc trước ngay mũi bà già. Bà ta im lặng. Bà già run rẩy như thể đang trong một cơn đau, và hai con mắt bà ta mở to như thể nó đang nhảy ra khỏi tròng mắt, và hơi thở của bà ta thoát ra từ những tiếng hổn hển khô khan. Cuộc đời của bà ta bây giờ do anh ta quyết định. Ý nghĩ đó làm dịu đi cơn thịnh nộ đang sôi của anh ta và mang tới cho anh ta một sự thỏa mãn và kiêu hãnh âm thầm. Anh ta nhìn xuống bà ta, và nói bằng một giọng nhẹ nhàng hơn:

“Xem này, tôi không phải là một quan nha có chức quyền. Tôi là một kẻ lạ vô tình đi ngang qua cổng này. Tôi sẽ không bó buộc bà hay làm gì để hại bà, nhưng bà phải nói cho tôi biết là bà đang làm gì trên này.”

Sau đó bà già càng trợn mắt hơn, và nhìn chằm chằm vào khuôn mặt với hai con mắt đỏ sắc quắc của một con chim săn mồi. Bà ta mấp máy môi, chun hết lên trên cả mũi mình, như thể bà ta đang nhai một thứ gì đó.

Cục hầu của bà ta chuyển động trong cuống họng mỏng dính. Rồi một âm thanh hổn hển tựa tiếng quạ kêu phát ra từ cổ họng của bà già.

“Tôi giựt tóc…Tôi giựt tóc ra…để làm một búi tóc giả.”

Câu trả lời của bà ta xua đuổi đi toàn bộ những thắc mắc kể từ lúc họ nhìn thấy nhau và mang tới nỗi thất vọng. Bỗng nhiên bà ta chỉ là một sinh vật già nua dưới chân anh ta. Không còn là một người bới tìm xác chết nữa: chỉ là một bà già làm tóc giả từ những người đã chết để bán, lấy tiền mua thức ăn. Một sự khinh thường lẳng lặng chiếm choáng anh ta. Nỗi sợ hãi bỏ đi, và nỗi giận dữ ban đầu quay trở lại. Những cảm xúc này chắc hẳn người kia đã cảm nhận được. Sinh vật già nua, vẫn nắm chặt dúm tóc mà bà ta đã bứng ra được khỏi xác chết, lẩm bẩm những từ này giọng nói đứt quãng của mình:

“Quả thực là, làm tóc giả từ tóc của những người đã chết có thể như một hành động xấu xa quá đỗi đối với anh, nhưng những người nằm xuống ở đây cũng chẳng xứng đáng gì hơn. Mụ đàn bà này, mái tóc đen đẹp đẽ của ả mà tôi vừa nhổ đây, trước đây thường bán thịt rắn cho những tay gác cổng thành, nói rằng đó là cá khô. Nếu ả không chết vì bệnh dịch hạch, thì giờ ả cũng bán nó rồi. Những tay lính gác muốn mua của ả, và thường nói cá của ả rất ngon. Những gì ả làm không thể nói là sai trái được, bởi vì nếu ả không làm, thì ả đã chết vì đói. Chẳng có cách nào khác. Nếu ả biết tôi phải làm điều này để sống, thì ả chắc có lẽ cũng chả thèm quan tâm.”

Anh ta tra lại thanh kiếm vào vỏ, và, với tay trái của anh ta cầm cán kiếm, anh ta lắng nghe bà ta chăm chú. Tay phải anh ta sờ cái mụn nổi trên má mình. Khi anh ta lắng nghe, một sự can đảm nào đó nảy sinh trong tâm anh ta – sự can đảm này anh ta không có được kể từ khi đứng dưới cổng cách đây ít lâu. Một sức mạnh lạ lùng đang thúc đẩy anh ta đi về hướng đối ngược của sự can đảm khi anh ta ghì chặt bà già. Anh ta không còn lăn tăn liệu có nên chết đói hay trở thành tên ăn trộm. Chết đói đã rời xa tâm trí anh ta đến nỗi đó là điều cuối cùng nó hiện lên.

“Bà có chắc không?” anh ta hỏi bằng giọng miệt thị, khi bà ta đã nói xong. Anh ta buông cánh tay phải của mình khỏi cái mụn, và cúi mình về phía trước, nắm lấy cổ bà ta và nói đanh thép:

“Thế thì tôi cướp của bà cũng chẳng có gì sai trái cả.”

Anh ta xé toạc bộ quần áo từ người bà già rồi đá mạnh bà ta xuống những cái xác khi bà ta giãy giụa và cố gắng bám chặt lấy chân anh ta. Năm bước, và anh ta ở trên đỉnh của những bậc thang. Bộ quần áo màu vàng mà anh ta vừa xé ra dưới cánh tay anh ta, và trong thoáng chốc anh ta chạy xuống dưới những bậc cầu thang vào trong lòng sâu của đêm. Tiếng rầm rập từ những bước chân bước xuống của anh ta uỳnh uỵch vào trong tháp vắng, rồi sau đó nó im lặng.

Ngay sau đó bà già nhỏm người dậy từ đống xác người. Càu nhàu và rên rỉ, bà ta leo lên bậc thang trên cùng, bằng ánh sáng của ngọn đuốc vẫn còn tàn dư, và qua mớ tóc xám lòa xòa trên mặt, bà ta nhìn xuống bậc thang cuối cùng bằng ánh sáng của cây đuốc.

Dưới đó chỉ có màn đêm…không hay biết và không biết tới.

(The end)

Akutagawa Ryunosuke
Chân dung nhà văn Ryūnosuke Akutagawa

Đọc truyện bằng tiếng Anh tại đây: https://www.shortstoryproject.com/stories/rashomon/

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *