Trò chuyện với xác ướp là một truyện châm biếm của Edgar Allan Poe được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1845.
*************************************
Bữa tiệc thảo luận của tối hôm trước hơi quá sức chịu đựng đối với hệ thần kinh của tôi. Tôi đã phải chịu cơn đau đầu dữ dội, và đờ đẫn đến cùng cực. Thế nên thay vì đi ra ngoài vào buổi tối như tôi đã đề nghị trước, tôi nhận thấy mình chẳng thể làm gì to tát hơn ngoài việc ăn một bữa tối nhồm nhoàm và đi ngủ ngay sau đó.
Một bữa tối nhẹ đương nhiên rồi. Tôi thích ăn bánh mì nướng bơ kiểu Welsh quá chừng.Tuy nhiên, ăn hơn một ổ bánh mì trong một bữa, có thể từ trước đến nay không được khuyến nghị. Dầu vậy, không có sự phản đối cần thiết nào nếu ăn hai. Và thực sự giữa hai và ba, chỉ có khác biệt tí ti. Tôi liều, có lẽ, ăn đến bốn. Vợ tôi sẽ ăn năm; nhưng, rõ ràng là, bà ấy đã lẫn lộn hai thứ khác biệt. Con số trừu tượng, năm, tôi phải thú nhận; nhưng, chính xác là, nó có liên quan tới những chai bia của Brown Stout, mà nếu không có chúng, làm đồ uống kèm, thì món bánh mì nướng bơ kiểu Welsh đó sẽ bị loại bỏ.
Sau khi đã ăn xong một bữa ăn thanh đạm, và trùm mũ ngủ lên đầu, với niềm hy vọng âm thầm được tận hưởng nó đến tận trưa ngày hôm sau, Tôi đặt đầu mình xuống gối, và dưới sự trợ giúp của lòng thanh thản, rơi ngay vào một giấc ngủ say.
Nhưng có khi nào những hy vọng của con người ta được thỏa nguyện kia chứ? Tôi chưa dứt được lần ngáy thứ ba thì có tiếng chuông cửa ngoài đường réo lên một cách giận dữ, và rồi có tiếng gõ vòng sắt cửa liên tiếp, làm tôi tỉnh dậy tức thì. Sau đó một phút, và khi Tôi còn đang dụi mắt, vợ tôi thảy vào mặt tôi một bức thư ngắn, từ người bạn già của tôi, tiến sĩ Ponnonner. Nó nhắn như sau:
Đến nhà tôi, bất kể lý do gì, bạn thân mến của tôi, ngay sau khi ông bạn nhận được tin này. Hãy đến giúp chúng tôi ăn mừng. Cuối cùng thì, bằng tài ngoại giao kiên trì lâu dài, Tôi đã được sự chấp thuận của Giám đốc bảo tàng thành phố, để tôi nghiên cứu Xác Ướp — ông đã biết tôi nói đến cái gì. Tôi đã được cho phép tháo băng ướp và mở nó, nếu muốn. Chỉ một vài người bạn sẽ có mặt — tất nhiên là cả ông bạn nữa. Xác Ướp hiện giờ đang ở nhà tôi, và chúng ta sẽ tháo băng ướp nó vào lúc mười một giờ đêm nay.
Bạn, mãi mãi, PONNONNER.
Đến lúc Tôi đọc chữ cuối ” Ponnonner,” Tôi bỗng nhiên thức tỉnh hoàn toàn như cần phải thế. Tôi nhảy ra khỏi giường với niềm phấn khích, đạp đổ mọi thứ vấp phải mình; tự mặc quần áo với sự mau lẹ thật sự phi thường; và đi ngay, với tốc độ không thể nhanh hơn, đến nhà tiến sĩ.
Ở đó tôi thấy một nhóm người rất háo hức đã tụ họp. Họ đã nóng lòng chờ Tôi nãy giờ; Xác Ướp được đặt trên bàn ăn; và giây phút Tôi bước vào họ bắt đầu khám nghiệm luôn cái xác.
Xác đó là một trong hai cái được mang về, cách đây một vài năm trước, bởi Đại úy Arthur Sabretash, một người họ hàng của Ponnonner, từ một ngôi mộ gần Eleithias, trên những ngọn núi của Lybia, một khoảng cách đáng kể ngược Thebes trên dòng sông Nile. Hang động ở khu vực này, mặc dù kém hoàng tráng hơn những ngôi mộ cổ Theban, có sức lôi cuốn hơn, vì cung cấp nhiều minh họa hơn cho đời sống cá nhân của những người Ai Cập. Căn phòng nơi chứa mẫu vật của chúng tôi, được cho là rất giàu hình ảnh minh chứng cho điều đó; các bức tường được phủ kín hoàn toàn bởi những bức vẽ và chạm khắc tường, trong khi những bức tượng, bình, và những bức khảm giàu họa tiết, nói lên khối tài sản to lớn của người quá cố.
Của cải đã được đặt ở bảo tàng trong điều kiện chính xác như khi Đại úy Sabretash đã tìm thấy, nghĩa là, chiếc quan tài chưa bị lục lọi. Trong tám năm nó đã dựng đứng như vậy, với mục đích duy nhất là trưng bày cho công chúng ngắm ngía. Thế nên, giờ chúng tôi, mới có Xác Ướp hoàn chỉnh theo yêu cầu sử dụng của chúng tôi; và với những người biết rằng đồ cổ còn nguyên vẹn đến được bờ biển của chúng ta hiếm hoi thế nào, rõ ràng là, chúng tôi có lý do để ăn mừng dịp may tuyệt vời này.
Tiến lại gần cái bàn, Tôi nhìn thấy nó trên đó là một chiếc hộp lớn, hay một cái hòm, dài gần hai mét hai, và có lẽ rộng gần một mét, sâu khoảng tám mươi cm. Nó có hình chữ nhật – chứ không phải là hình quan tài. Vật liệu ban đầu được cho là gỗ cây sung dâu, nhưng, khi cắt sâu vào bên trong, chúng tôi nhận thấy nó là bìa cứng, hay, chính xác hơn, giấy bồi, làm từ cây cói giấy. Nó được trang trí dày đặc bởi những hình vẽ, miêu tả cảnh tang lễ, và những vật dụng dùng để tế quan khác — rải rác quanh những đồ dùng ấy, ở mọi vị trí khác nhau, là những chữ viết tượng hình, được chủ ý, không nghi ngờ gì, lưu lại tên của người đã quá cố. May mắn sao, ông Gliddon, một người trong số chúng tôi, không có bất kỳ khó khăn nào trong việc giải nghĩa những chữ viết đó, mà đơn thuần là ngữ âm, rồi trình ra từ Allamistakeo.
Chúng tôi gặp một vài khó khăn trong việc mở chiếc hòm mà không làm hư hại gì; nhưng cuối cùng thì cũng hoàn thành được nhiệm vụ, chúng tôi mở cái thứ hai, hình quan tài, và chiếc hòm này có kích cỡ nhỏ hơn đáng kể so với chiếc hòm ngoài, nhưng lại hoàn toàn giống ở những khía cạnh khác. Khoảng trống giữa hai hòm được trét đầy nhựa cây, mà, ở mức độ nào đó, làm mờ những sắc màu của hòm bên trong.
Trong lúc mở cái thứ hai (việc này chúng tôi làm khá dễ dàng), chúng tôi đến cái thứ ba, cũng là chiếc hòm hình quan tài, và không có điểm đặc biệt khác chiếc thứ hai, ngoại trừ việc vật liệu làm nên chiếc hòm là gỗ cây tuyết tùng, vẫn tỏa ra mùi đặc trưng và hương thơm ngất ngây của loại gỗ đó. Giữa cái thứ hai và cái thứ ba không có khoảng trống nào – cái này lồng gọn trong cái kia.
Nhấc bỏ chiếc hòm thứ ba, chúng tôi phát hiện và lấy cái xác ra. Chúng tôi đã kỳ vọng tìm thấy nó, như thường lệ, cuốn nhiều những vòng cuốn, hay những dải băng, bằng vải lanh; nhưng, thay vì đó, chúng tôi tìm thấy một kiểu vỏ bọc, làm từ cây cói giấy, và được phủ một lớp thạch cao, được mạ và sơn một lớp vàng dày. Các hình vẽ miêu tả những vật thể có liên quan đến những bổn phận giả định của linh hồn, với những khả lộ của nó trước các vị thần khác nhau, với vô số những hình người đồng nhất, được chủ đích, rất có thể, là chân dung của những người đã được tẩm ướp. Khắp từ đầu đến chân là một trụ cột, hay đường vuông góc, chữ khắc, theo lối tượng hình ngữ âm, ghi lại tên tuổi và tước hiệu của cái xác, và tên tuổi cũng như tước hiệu những người họ hàng của cái xác.
Quanh cổ được bọc kín, là một vòng làm bằng những hạt pha lê hình trụ, có nhiều màu khác nhau, và được xâu như thể tạo thành những hình ảnh của các vị thần, dáng hình bọ hung, etc, với những cánh hình cầu. Xung quanh vòng eo lưng nhỏ cũng là một chiếc vòng hay dây đai tương tự.
Lột lớp vỏ cây cói giấy, chúng tôi thấy da thịt được bảo quản hoàn hảo, không có bất kỳ mùi nào. Mùa sắc hơi đỏ. Da cứng, mịn, và bóng. Răng và tóc trong điều kiện tốt. Mắt ( có vẻ) đã được bỏ, và thay vào đó là mắt bằng thủy tinh, rất đẹp và đầy sức sống, ngoại trừ chúng toát ra vẻ gọi là trừng trừng thấy rõ. Các ngón tay và móng tay được mạ vàng rực rỡ.
Ông Gliddon có ý kiến, từ sắc đỏ của lớp biểu bì, rằng việc ướp xác đã bị ảnh hưởng toàn bộ bởi chất nhựa đen; nhưng, khi cạo bề mặt với một dụng cụ bằng thép, và ném vào lửa một chút bột gạt ra được, mùi thơm của long não và những chất gôm hương ngọt ngào tỏa ra không thể chối cãi được.
Chúng tôi nghiên cứu cái xác một cách rất cẩn thận những vết hở thường thấy, mà thông qua đó nội tạng được lôi ra, nhưng, thật kinh ngạc, chúng tôi chẳng thể tìm thấy vết nào. Không có thành viên nào trong hội tại thời điểm đó biết được rằng những xác ướp vẹn toàn hay chưa tháo băng thường không hiếm gặp. Bộ não theo tục lệ được lôi ra từ mũi; ruột thường lôi ra qua một vết rạch bên hông; thân thể sau đó được cạo, rửa, và ướp muối; rồi đặt sang một bên trong khoảng một vài tuần, khi việc mổ xẻ tẩm ướp, được gọi chính xác là thế, bắt đầu.
Vì không tìm thấy vết rạch nào, tiến sĩ Ponnonner chuẩn bị dụng cụ giải phẫu tử thi của ông, khi Tôi quan sát việc này thì lúc đó kim đồng hồ đã chỉ quá hai giờ. Thế nên việc này được cả hội chúng tôi đồng ý dời đến tối ngày mai; và chúng tôi rục rịch ra về, thì có người gợi ý một thí nghiệm hay hai với pin Voltaic.
Việc áp điện vào một xác ướp ít nhất cũng tồn tại được đã ba hoặc bốn ngàn năm, là một ý tưởng, nếu không nghiêm trang cho lắm, thì cũng đủ độc đáo rồi, và tất cả chúng tôi đều hưởng ứng cùng một lúc. Khoảng một mười sốt sắng và chín phần mười pha trò, chúng tôi sắp xếp một cái pin trong phòng làm việc của tiến sĩ, và chuyển xác người Ai Cập tới đó.
Sau một hồi loay hoay chúng tôi cũng bóc được một số phần cơ thái dương, phần độ cứng có vẻ ít hơn những phần khác của cái xác, nhưng điều này, như chúng tôi đã dự tính trước, tất nhiên, không thể hiện độ cảm ứng điện khi được nối với dây. Lần thử đầu tiên này, quả thật, mang tính quyết định, và, với một tiếng cười thiệt tâm trước nỗi ngu xuẩn của mình, chúng tôi nói lời tạm biệt nhau, khi hai con mắt của tôi, tình cờ bắt gặp hai con mắt của Xác Ướp, ngay lập tức chú ý trong nỗi kinh ngạc. Cái liếc nhìn của tôi, quả thực, đã đủ để thuyết phục tôi rằng hai con mắt mà chúng tôi đều nghĩ rằng chúng làm bằng thủy tinh, mà lúc đầu được tiếp nhận như cái nhìn chăm chăm man rợ nào đó, bây giờ được che bằng mi mắt, đến nỗi chỉ có một phần nhỏ của lớp vỏ trắng là còn trông thấy được.
Tôi kêu lên một tiếng thu hút sự chú ý đến sự việc, và nó lập tức hiển hiện trước tất cả chúng tôi.
Tôi không thể nói rằng Tôi bị hoảng hồn trước hiện tượng này, bởi vì “bị hoảng hồn”, trong trường hợp của tôi, là từ không chính xác. Tuy nhiên, có thể, cái này, vì bia Brown Stout mà tôi có thể đã có chút kinh sợ. Về phần những người còn lại trong hội, họ thật sự chẳng bận tâm đến việc che đậy nỗi sợ hãi rành rành đã bao phủ họ. Tiến sĩ Ponnonner là người thật đáng thương. Ông Gliddon, bằng cách thức lạ thường nào đó, làm cho bản thân mình biến mất. Ông Silk Buckingham, Tôi võ đoán, chắc chắn sẽ không dũng cảm quá đỗi để phủ nhận rằng ông ấy đã tìm được lối thoát, bò hai tay hai chân, dưới gầm bàn.
Tuy nhiên, sau lần áp điện đầu tiên đầy ngạc nhiên, chúng tôi quyết tâm, như lẽ đương nhiên, làm thêm thí nghiệm ngay tức thì. Những thao tác của chúng tôi giờ được chỉ định trực tiếp lên ngón chân cái của bàn chân phải. Chúng tôi rạch một vết phía ngoài trên xương vừng ngón chân cái, và chạm tới gốc cơ giạng. Chỉnh sửa lại pin, chúng tôi áp nước lên những dây thần kinh cắt đôi – khi ấy, với một cử động giống như thật quá đỗi, Xác Ướp đầu tiên co đầu gối phải của nó đến mức gần chạm vào bụng, và sau đó, duỗi chân với một lực không thể tưởng tượng được, tặng một cú đá cho tiến sĩ Ponnonner, mạnh đến nỗi đã hất văng ngài tiến sĩ, như một mũi tên từ máy bắn đá, qua một cửa sổ xuống con phố phía dưới.
Tất cả chúng tôi túa ra ngoài để thu lượm những phần nham nhở còn sót lại của nạn nhân, nhưng thật sung sướng khi gặp ông ấy nơi cầu thang, đang bước lên trong vội vàng khó hiểu, tràn đầy những triết lý sống sôi nổi nhất, và phấn khích hơn bao giờ hết trước sự cần thiết phải tiến hành thí nghiệm của chúng tôi với sự sốt sắng và lòng hăng hái.
Theo lời khuyên của ngài tiến sĩ, sau đó, chúng tôi, ngay lập tức, rạch một đường sâu vào bên trong chóp mũi của cái xác, trong khi chính tiến sĩ, đặt mạnh tay lên đó, kịch liệt kéo nó tiếp xúc với dây điện.
Về mặt đạo đức và vật lý học – ẩn ý và theo nghĩa đen – đó là tác động điện. Thứ nhất, cái xác mở mắt của nó và nhấp nháy rất nhanh trong khoảng vài phút, như Ông Barnes làm kịch câm, thứ nhì, nó hắt xì; thứ ba, nó ngồi nhỏm dậy; thứ tư, nó hươ nắm tay của nó trước mặt tiến sĩ Ponnonner; thứ năm, quay sang hai quý ngài Gliddon và Buckingham, nó nói, bằng tiếng Ai Cập rất tinh tế, như sau:
“Tôi phải nói rằng, thưa các quý ông, rằng Tôi rất lấy làm ngạc nhiên cũng như xấu hổ trước cách cư xử của các ngài. Về tiến sĩ Ponnonner chẳng mong ông ấy khá hơn. Ông ấy chỉ là một gã ngốc béo phì tội nghiệp người chẳng biết gì thêm. Tôi thấy tội nghiệp và tha thứ cho ông ra. Nhưng ngài, ngài Gliddon – và cả ngài nữa, ngài Silk – người đã từng đến và ở lại Ai Cập cho đến khi người ta nghĩ ngài là người bản địa – các ngài, Tôi nói là những người trong số chúng ta đây nói tiếng Ai Cập rất rành, Tôi nghĩ, cũng như thể các ngài viết bằng tiếng mẹ đẻ vậy – các ngài, những người Tôi luôn có cảm nhận rằng là những người bạn trung thành của xác ướp – Tôi thực sự mong đợi cách cư xử cho đáng quý ông hơn từ các ngài. Tôi phải nghĩ sao đây khi các ngài im lặng vây quanh và nhìn thấy tôi bị sử dụng không thương tiếc thế này? Tôi phải nghĩ sao đây khi các ngài cho phép Tom, Dick, và Harry lôi tôi ra từ những chiếc hòm của mình, và quần áo của tôi, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt thế này? Lý lẽ nào (nói ngay vào vấn đề) để Tôi hiểu về cách các ngài trợ giúp và tiếp tay cho kẻ hung ác bé nhỏ khốn khổ, tiến sĩ Ponnonner, khi kéo cái mũi của tôi?”
Giả dụ như vầy, không còn nghi ngờ gì nữa, rằng chúng tôi sau khi nghe những lời nói trên trong trường hợp như thế này, hoặc tất cả chúng tôi chạy ra cửa, hoặc rơi vào cơn cuồng loạn quá khích, hoặc túa ra trong bất tỉnh toàn tập. Một trong ba điều kể trên, Tôi nói, được mong đợi xảy ra. Thực sự mỗi và tất cả những kiểu cư xử này có thể đã được thực hiện một cách hợp lý. Và, thật ngạc nhiên, Tôi chẳng thể hiểu tại sao hay thế nào mà chúng tôi lại chẳng hành động theo bất cứ kiểu nào trong số đó. Nhưng, có lẽ, lý do thực sự sẽ được tìm kiếm trong tinh thần của thời đại, thời đại tiến bước theo những luật lệ trái ngược nhau hoàn toàn, và giờ luôn luôn được thừa nhận như giải pháp cho mọi thứ theo cách ngược đời và sự không có thể. Hay, có lẽ, sau tất cả, chỉ là điệu bộ tự nhiên quá chừng và đương nhiên phải thế của Xác Ướp đã gạt bỏ những lời lẽ khủng khiếp của anh ta. Tuy nhiên dù gì đi chăng nữa, sự việc đã rõ ràng, và không thành viên nào trong hội của chúng tôi để lộ ra sự run rẩy rất đặc biệt nào, hoặc tỏ vẻ băn khoăn liệu có bất cứ điều gì đã đi chệch hướng thái quá.
Đọc tiếp phần 2 tại đây: https://truyenjimmy.com/2020/09/tro-chuyen-voi-xac-uop-boi-edgar-allan-poe.html
Đọc bản tiếng Anh tại đây: https://poestories.com/read/mummy
2 replies to “Trò chuyện với Xác Ướp bởi Edgar Allan Poe (P. 1)”