Ben-Hur: một truyện về đấng Christ (P.3)

Ben-Hur là một câu chuyện về một người anh hùng hư cấu tên là Judah Ben-Hur, một quí tộc người Do Thái bị kết tội oan và bị xử án vì chủ mưu ám sát một kẻ thống trị người La Mã và do đó bị quân La Mã bắt làm nô lệ. Anh ta trở thành một người điều khiển xe đua ngựa thành công. Cốt truyện báo thù trở thành câu chuyện của cảm thương và tha thứ.

Charlton Heston trong vai Ben Hur (1959)
Charlton Heston trong vai Ben Hur (1959)

Nói theo ngôn ngữ của thời đại, cuộc gặp gỡ vừa được miêu tả xảy ra vào năm Rome 747. Tháng đó là tháng mười hai, và mùa đông đã bao phủ tất cả mọi vùng phía đông Địa Trung Hải. Một cuộc du hành trên sa mạc vào mùa này sẽ không đi được xa nếu không bị thôi thúc bởi một khao khát mãnh liệt. Khách khứa dưới túp lều bé nhỏ cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó. Sau bữa ăn ngon lành vì đói bụng, và những ngụm rượu, họ bàn chuyện.

“Với một khách bộ hành trên một vùng đất xa lạ không gì thân thương hơn khi nghe một người bạn gọi tên anh ta,” người Ai Cập nói, người được cho là chủ trì của bữa tiệc. “Chúng ta sẽ có nhiều ngày sát cánh bên nhau. Đã đến lúc chúng ta tìm hiểu về nhau. Vậy, nếu đồng ý, ai đến trước sẽ là người nói trước.”

Rồi thì, một cách chậm rãi, như thể một người đang thận trọng với chính bản thân anh ta, người Hy Lạp nói đầu tiên: “Những gì tôi phải nói, người anh em của tôi, thật là lạ lùng đến nỗi tôi không tài nào hiểu nổi nên bắt đâu từ đâu hay tôi có thể nói thế nào cho hợp lẽ. Tôi không thể nào hiểu nổi bản thân mình. Điều mà tôi chắc chắn rằng là tôi đang làm theo ý nguyện của một chủ nhân, và việc phục vụ ngài là một niềm vui sướng không ngớt. Khi tôi nghĩ về mục đích mà tôi được giao phó hoàn thành, có một niềm vui trong tôi không thể diễn tả được đến nỗi tôi chỉ biết rằng đó là ý nguyện của Thượng Đế.”

Người đàn ông hiền hậu dừng nói, không thể diễn đạt được hơn, trong khi những người khác, đồng cảm với tâm tư của ông, đưa mắt nhìn xuống.

“Xa về phía Tây nơi này,” ông bắt đầu lại, “có một vùng đất mà có thể không bao giờ quyên được; giá mà bởi vì thế gian còn mắc nợ nó quá nhiều, và bởi vì sự mắc nợ đó là vì những thứ mang lại cho con người ta những thú vui tao nhã nhất. Tôi sẽ không nói gì về nghệ thuật, về triết học, về tài hùng biện, về chiến tranh: Ôi những người anh em, món nợ của vùng đất đó là vinh quang luôn luôn phải tỏa sáng trên những chữ viết trau chuốt, mà qua đó con người chúng ta đây phải đi tìm và lan truyền để toàn bộ địa cầu này biết. Vùng đất mà tôi nói tới là Hy Lạp. Tôi là Gaspar, con trai của Cleanthes người Athen.

“Người dân ở xứ tôi,” ông tiếp tục,” được chu cấp đầy đủ để học hành, và từ họ tôi tìm được niềm đam mê chung. Chuyện kể rằng có hai nhà triết học của chúng tôi, hai nhà triết học vĩ đại nhất, giảng về, một học thuyết về linh hồn trong mỗi con người, và tính bất tử của nó; học thuyết thứ hai về Thượng Đế duy nhất, vô thủy vô chung. Từ rất nhiều chủ đề mà các trường phái đã tranh luận rất lâu, tôi tách chúng ra, một mình tìm lời giải quả cũng đáng; vì tôi cho rằng có mối liên hệ giữa Thượng Đế và linh hồn mà chưa được biết đến. Về luận điểm này tâm trí có thể suy luận đến một điểm, như một bức tường chết không thể vượt qua; đến được đó rồi, tất cả còn lại là đứng đó và khóc lên thật to kêu giúp. Tôi đã làm như vậy; nhưng không ai đến giúp tôi phía bên kia bức tường. Trong tuyệt vọng, tôi xé bỏ bản thân mình khỏi các thành phố và các trường phái.”

Khi nghe những lời này một nụ cười nghiêm túc tán thành thắp sáng gương mặt hốc hác của người Hindu.

“Ở phía bắc đất nước tôi – ở Thessaly,” người Hy Lạp tiếp tục nói,”có một ngọn núi nổi tiếng là nhà các thần, nơi Theus, người mà dân tôi tin rằng ông là thần tối cao, cư ngụ; Olympus là tên gọi của ngọn núi. Tôi đã dấn thân mình theo hướng đó. Tôi tìm thấy một cái hang ở một ngọn đồi nơi ngọn núi, đến từ phía tây, hướng về phía đông nam; nơi tôi dừng chân, dành chọn thân mình cho suy tưởng–không, tôi dâng hiến mình chờ đợi bất cứ hơi thở nào là lời cầu nguyện – để được Mặc Khải. Tin tưởng nơi Thượng Đế, vô hình nhưng tối cao, tôi cũng tin điều này là có thể khi tôi khao khát muốn được gặp ngài với tất cả tâm hồn mình ngài có lẽ sẽ thương cảm mà trả lời câu hỏi của tôi.

“Và ngài xuất hiện-ngài xuất hiện!” người Hindu thốt lên, nhấc bàn tay ông ta khỏi mảnh vải lụa trong lòng mình.

“Nghe tôi đây, người anh em,” người Hy Lạp nói, cố gắng kìm nén bản thân mình.”Cánh cửa tu viện của tôi nhìn ra một hướng biển, đến tận vùng vịnh Thermaic . Một ngày kia tôi nhìn thấy một người đàn ông nhảy bổ qua mạn tàu xuống biển từ một con tàu dong buồm ngang qua. Ông ta bơi vào bờ. Tôi đã đón và chăm sóc ông ta. Ông ta là một người Do Thái, uyên bác về lịch sử và luật lệ của người dân xứ ông ta; và từ ông ta tôi biết rằng Thượng Đế mà tôi cầu nguyện thật sự tồn tại; và từ rất rất lâu là người soạn thảo luật pháp, người trị vì, và vua của họ. Nhưng Mặc Khải thứ mà tôi thường mơ về là gì? Lòng tin của tôi không phải là vô ích; Thượng Đế đã trả lời tôi!”

Và ngài trả lời tất cả những ai gọi ngài với lòng tin như vậy,” người Hindu nói.

“Nhưng, than ôi!” người Ai Cập chêm vào, ” có mấy người đủ thông thái ngoài kia mà biết được khi nào ngài đáp lại lời họ!”

“Chuyện chưa dừng ở đó,” người Hy Lạp tiếp tục. “Người đàn ông đó còn kể cho tôi nữa. Ông ta nói nhà tiên tri, từ thời xưa đã đi theo lần Mặc Khải đầu tiên, dạo bộ và trò chuyện với Thượng Đế, tuyên bố rằng ngài sẽ lại đến. Ông ta đưa cho tôi tên của các nhà tiên tri, và từ những cuốn sách linh thiêng trích dẫn những lời của họ. Ông ta còn kể tôi biết thêm, rằng lần thứ hai sẽ sớm xảy đến – được mong đợi ở Jerusalem lúc đó.

Người Hy Lạp dừng lại, và vẻ sáng ngời trên vẻ mặt của ông dần biến mất.

“Đúng là,” ông ta nói, sau chút lững lự — “đúng là người đàn ông đó nói với tôi vì Thượng Đế và Mặc Khải mà ông ta nói đến chỉ dành riêng cho người Do Thái mà thôi, nên sẽ có lần nữa. Người sẽ đến làm vua của người Do Thái. “Ông ấy không có gì trao tặng cho phần còn lại của thế gian ư?” tôi hỏi. “Không,” là câu trả lời, được thốt ra bằng một giọng tự hào–“Không, chúng tôi là những người được chọn.” Câu trả lời không làm tiêu tan niềm hy vọng của tôi. Tại sao một Thượng Đế như vậy lại giới hạn tình yêu thương và việc nghĩa của ngài cho một vùng đất, và, như đã thấy, cho một gia đình thôi? Tôi quyết trong lòng phải tìm câu trả lời mới được. Cuối cùng tôi đạp tan niềm kiêu hãnh của người đàn ông đó, và biết được rằng cha ông của ông ta được chọn làm người phụng sự giữ cho sự thật được giác ngộ, rằng thế gian cuối cùng cũng biết đến điều này và được cứu rỗi. Khi người Do Thái đi rồi, và tôi lại ở một mình, tôi ép tâm hồn mình với lời cầu nguyện mới — rằng tôi có thể được phép gặp Nhà vua khi ngài tới, và thờ phụng ngài. Một tối tôi ngồi bên cửa hang của mình cố tìm hiểu những bí ẩn về sự tồn tại của mình, biết rằng biết được điều đó là biết được Thượng Đế; bỗng nhiên, trên mặt biển phía dưới tôi, chính xác hơn là trong bóng đêm bao trùm lên gương mặt của nó, tôi thấy một ngôi sao bắt đầu thắp sáng; nó dâng lên chầm chậm và đến gần, rồi đứng trên ngọn đồi và trên cánh cửa của tôi, để ánh sáng của nó chiếu xuống người tôi. Tôi gục xuống, và ngủ thiếp đi, và trong giấc mơ tôi nghe một giọng nói:

”Ôi Gaspar! Đức tin của con đã chiến thắng! Con thật có phước! Cùng với hai người nữa, đến từ những vùng xa xôi nhất của trái đất, con sẽ thấy Người được Thượng Đế hứa, và sẽ là nhân chứng cho người đó, và cơ hội làm chứng nhân danh người ấy. Khi mặt trời mọc, hãy đi gặp họ, và hãy tin tưởng rằng Linh hồn sẽ dẫn đường cho con.”

“Vào khi buổi sáng khi tôi thức giấc với Linh hồn là ánh sáng bên trong hơn cả mặt trời. Tôi cởi bỏ bộ quần áo của nhà tu ẩn dật, và mặc lại trang phục xưa. Tôi lấy của cải từ một chỗ cất dấu mà tôi mang theo ngày rời thành phố. Một con tàu dong buồm đi qua. Tôi hú nó, được dẫn lên boong, và đặt chân lên Antioch. Tại đó tôi mua một con lạc đà và đồ đạc cho nó. Qua những khu vườn và những vườn cây ăn quả tô điểm cho những bờ sông Orontes, Tôi đi đến Emesa, Damascus, Bostra, và Philadelphia; sau đó đến đây. Vậy đấy, hỡi người anh em, đã nghe câu chuyện của tôi. Giờ hãy để tôi nghe chuyện của người anh em.”

Chuyến đi tìm Người mà Thượng Đế hứa của ba nhà thông thái
Chuyến đi tìm Người mà Thượng Đế hứa của ba nhà thông thái

Người Ai Cập và người Hindu nhìn nhau; người Ai Cập xua tay của mình; người Hindu cúi đầu, và bắt đầu:

“Người anh em của chúng ta đã nói rất hay. Hy vọng lời lẽ của tôi đủ minh triết được vậy.”

Ông ta đột nhiên ngừng lại, suy nghĩ chốc lát, rồi tiếp tục:

Người anh em có thể biết tôi, qua cái tên Melchior. Tôi nói với người anh em bằng ngôn ngữ, nếu không phải là cổ nhất trên đời này, thì ít nhất cũng là sớm nhất được giản thể tới các chữ cái — ý tôi là chữ Sanscrit của India. Cha mẹ tôi là người Hindu. Giống người của chúng tôi là những người đầu tiên bước đi trên những cánh đồng của tri thức, những người đầu tiên phân chia chúng, những người đầu tiên làm chúng trở nên tuyệt vời. Bất luận những gì xảy đến sau đó, kinh Vedas phải tồn tại, vì chúng là những suối nguồn nguyên thủy của tôn giáo và trí tuệ hữu ích. Từ bốn cuốn kinh Vedas đó mà phân ra kinh Upa-Vedas, được truyền tải bởi Brahma, luận về y thuật, thuật bắn cung, kiến trúc, âm nhạc, và bốn mươi sáu kỹ năng thực hành; Veda-Angas, được các thánh thần chỉ giáo, và chuyên về thiên văn học, ngữ pháp, phép làm thơ, cách phát âm, bùa ngải và niệm thần chú, những lễ nghi và nghi thức tôn giáo; Up-Angas, được viết bởi thánh Vyasa, chuyên về nguồn gốc vũ trụ, niên đại học, và địa lý học; trong đó còn có sử thi Ramayana Mahabharata, được viết để ca ngợi bất tử các thần và á thần. Những cuốn đó, người anh em, là Những Lời Giáo Huấn Vĩ Đại, hay là những cuốn sách của những qui tắc linh thiêng. Với tôi giờ thì chúng đã chết; nhưng qua mọi thời gian chúng sẽ có ích khi làm rạng danh những thiên tài của chủng người chúng tôi. Chúng là những lời hứa hẹn nhanh chóng đạt được sự hoàn mỹ. Hỏi người anh em tại sao những hứa hẹn đó thất bại? Trời ơi! Chính những cuốn sách đó đóng lại tất cả mọi cánh cửa tiến bộ. Dưới những giáo huấn về tình thương cho sinh loài, các tác giả đã áp đặt những qui tắc gây tại họa rằng con người không được dấn thân vào tìm tòi hay phát kiến, vì Thiên Đàng đã cung cấp cho anh ta mọi thứ cần thiết. Khi điều kiện đó trở thành một luật lệ thiêng liêng, cây đèn của thiên tài Hindu đã được hạ thấp xuống một cái giếng, ở bất cứ nơi nào bởi vì nó đã thắp sáng những bức tường chật hẹp và những giọt nước đau khổ.”

“Những ám chỉ này, người bằng hữu, không phải từ niềm kiêu hãnh, vì người bằng hữu sẽ hiểu khi tôi nói rằng Shastras rao giảng về Thượng Đế Tối Cao được gọi là Brahm; đồng thời cũng giảng rằng Puranas, hay những vần thơ thiêng liêng của cuốn Up-Angas, dạy chúng ta về Đức Hạnh và Những Việc Làm Cao Cả, và về Linh Hồn. Vì thế, nếu người bằng hữu cho phép nói rằng” — diễn giả cúi đầu tôn kính trước người Hy Lạp — “rất lâu trước khi người Hy Lạp được biết đến, hai ý tưởng vĩ đại, Thượng Đế và Linh Hồn, đã được thấm nhuần mọi mặt trong tâm trí của người Hindu. Để giải thích rõ hơn cho phép tôi nói rằng Brahma được truyền giảng rằng, theo những cuốn sách thiêng liêng tương tự, như là Triad–Brahma, Vishnu, and Shiva. Brahma được cho rằng, trong tất cả những cuốn sách đó, là người đã sản sinh ra chủng tộc chúng tôi; chủng mà, trong quá trình sáng tạo, ngài đã chia thành bốn đẳng cấp. Thứ nhất, ngài xếp dân chúng ở thế giới dưới và thiên đàng ở trên; tiếp theo ngài kiến tạo trái đất sẵn sàng cho những linh hồn sống trên mặt đất; rồi từ miệng ngài phóng ra Brahman, gần giống với bản thân ngài nhất, cao quý và xuất sắc nhất, những người thuyết giảng kinh Vedas duy nhất, kinh này xuất phát đồng thời từ miệng người trong giai đoạn hoàn tất, hoàn hảo trong tất cả tri thức có ích. Tiếp theo từ cánh tay của ngài mà sinh ra Kshtriya, hay những chiến binh; từ lồng ngực ngài, bệ phóng của sự sống, Vaisya bước ra, hay những người sản xuất–những người chăn cừu, những người nông dân, những thương nhân; từ bàn chân ngài, theo phân chia của cấp dưới, bước ra những người Sudra, hay những người nô lệ, bị đầy đọa để làm những công việc tay chân cho những tầng lớp khác–nông nô, những người hầu, những người lao động nặng, những thợ thủ công. Hãy chú ý, thêm vào đó, luật pháp, cũng ra đời cùng với họ, cấm một người của một đẳng cấp trở thành thành viên của đẳng cấp khác; người Brahman không thể bước vào một hàng ngũ thấp hơn, nếu nah ta sai phạm những qui định của chính đẳng cấp anh ta, anh ta sẽ trở thành kẻ bị ruồng bỏ, trở thành kẻ thua cuộc với tất cả ngoại trừ những kẻ bị ruồng bỏ như chính anh ta.”

biểu đồ phân tầng giai cấp trong xã hội Ấn Độ xưa
biểu đồ phân tầng giai cấp trong xã hội Ấn Độ xưa

Khi nói đến đây, trí tưởng tượng của người Hy Lạp, vụt sáng lên về phía trước luận theo những hậu quả của một sự suy đồi như vậy, không kìm được sự quan tâm sốt sắng của mình, và ông thốt lên,”Trong tình cảnh như vậy, hỡi người anh em, thật cần lắm một Thượng Đế của tình yêu thương!”

“Đúng thế,” người Ai Cập nói chêm , “một Thượng Đế của tình yêu thương như Thượng Đế của chúng ta.”

Đôi lông mày của người Hindu nhíu lại đau đáu; khi nỗi niềm đã qua đi, ông tiếp tục, bằng một giọng nói đã trùng xuống.

“Tôi sinh ra là một người Brahman. Cuộc đời tôi, theo đó, được định đoạt xuống hành vi nhỏ nhất của nó, tới giờ khắc cuối cùng của nó. Làn hơi nuôi dưỡng đầu tiên của tôi, trao cho tôi một tên ghép; đem tôi ra phơi nắng lần đầu; trao cho tôi ba sợi chỉ ám chỉ tôi sinh ra lần hai; lần giới thiệu của tôi vào giai tầng thứ nhất–được làm lễ với những văn tự linh thiêng và nghi thức cứng nhắc. Tôi không thể đi lại, ăn, uống, hay ngủ mà không lo lắng về việc phạm luật. Và hậu quả, ôi người anh em, và sự trừng phạt với tâm hồn tôi! Theo cấp độ của những sai sót, tâm hồn tôi xuống một trong những thiên đường–thấp kém nhất là Indra, Brahma là cao quý nhất; hoặc bị đẩy trở về sống đời một con giun đất, hay một con ruồi, hay một con cá, hay một súc vật. Phần thưởng dành cho sự tuân thủ hoàn hảo là Phúc Lớn, hay tan trong cõi vô cùng của Brahm, cái này không tồn tại cũng như sự tĩnh tuyệt đối.”

Người Hindu trầm tư một mình trong giây lát; rồi tiếp tục, ông nói: “Phần đời sống của một người Brahman theo thứ tự đầu tiên là đời sống sinh viên của anh ta. Khi tôi đã sẵn sàng bước vào phần thứ hai–có nghĩa là, khi tôi đã sẵn sàng lập gia thất và trở thành một người chủ gia đình–Tôi cật vấn tất cả mọi thứ, thậm chí Đại Ngã; Tôi là một kẻ dị giáo. Từ lòng sâu của chiếc giếng tôi đã phát hiện ra một luồng sáng bên trên, và khát khao đi lên trên xem nó đã chiếu rọi xuống những gì. Cuối cùng thì–ôi chao, sau những năm tháng đầy khó nhọc!–Tôi đứng trong một ngày hoàn hảo, và nghiệm thấy nguyên tắc của sự sống, yếu tố tôn giáo, đường kết nối giữa linh hồn và Thượng Đế–Tình yêu thương!

Khuôn mặt nhăn nhúm của người đàn ông đức hạnh sáng bừng lên, và ông vỗ mạnh hai bàn tay mình. Sau đó là một sự im lặng, lúc đó hai người còn lại đưa mắt nhìn ông, người Hy Lạp qua nước mắt. Cuối cùng ông tiếp tục:

“Niềm hạnh phúc yêu thương nằm nơi hành động; thử thách của nó là những gì một người sẵn lòng làm cho những người khác. Tôi không thể nghỉ ngơi được. Brahm đã làm đầy thế giới này với những điều bất hạnh. Giai tầng Sudra đã kêu gọi tôi, cùng vô số những người mộ đạo cũng như nạn nhân. Hòn đảo Gâng Lagor nằm nơi những con nước linh thiêng của sông Ganges hòa vào Ấn Độ Dương. Theo đó mà tôi dấn thân mình. Dưới bóng ngôi đền được xây dựng ở đó thờ nhà hiền triết Kapila, trong hợp thanh lời nguyện cầu với những môn đệ những người thánh hóa ký ức của thần nhân đó vang đều xung quanh nhà ông, Tôi tưởng mình đã tìm thấy sự thanh thản. Nhưng hai lần mỗi năm những người hành hương Hindu đến để tìm kiếm sự thanh tịnh của những giọt nước. Nỗi đau khổ của họ làm tình thương của tôi mạnh mẽ. Tôi nghiến chặt hai hàm răng mình chống lại sự thôi thúc buột miệng ra; vì một từ chống lại Đại Ngã hay Tam thần hay Giới luật sẽ lấy đi mạng sống của tôi; một hành động nhân đạo với những người Brahman bị ruồng bỏ những người thỉnh thoảng lê lết thân mình trên cát nóng đến chết–một câu kinh nói rằng, một cốc nước đã được trao tặng–và tôi trở thành một người trong số họ, lạc loài với gia đình, đất nước, những đặc ân, đẳng cấp. Tình yêu thương đã chiến thắng! Tôi nói với những môn đệ trong ngôi đền; họ xua đuổi tôi ra ngoài. Tôi nói với những người hành hương; họ ném đá vào người tôi từ hòn đảo. Trên những con đường rộng thênh thang, tôi thử giảng đạo; những người nghe thấy tôi nói rời bỏ tôi, hay đe dọa tôi. Trên toàn cõi nước Ấn, cuối cùng, không có một nơi nào tôi có thể tìm thấy sự bình yên hay sự an toàn–thậm chí ngay cả giữa những người bị ruồng bỏ, vì, dù gục ngã, họ vẫn tin vào Đại Ngã. Trong cơn bĩ cực tột cùng của mình, tôi tìm kiếm sự đơn độc để có thể trốn tránh tất cả trừ Thượng Đế. Tôi theo dòng sông Hằng đến thượng nguồn của nó, tít tận trên dãy Hi Mã Lạp Sơn. Khi tôi bước vào nơi cửa ngõ Hurdwar, nơi con sông, trong trẻo không vẩn đục, biến hóa theo dòng chảy của nó qua những vùng đất thấp đầy bùn, tôi đã cầu nguyện cho giai cấp của mình, và tự đắm đuối bản thân mình theo họ mãi mãi. Qua những hẻm núi, những vách đá, qua những dòng sông băng, trên đỉnh núi xa tưởng chạm đến các vì sao, tôi tìm đường tới Lang Tso, một hồ nước tuyệt đẹp, lững lờ dưới chân Tise Gangri, núi Gurla, và núi Kailas Parbot, những ngọn núi khổng lồ khoe vương miện tuyết của chúng mãi mãi trước mặt trời. Ở đó, ngay trung tâm của trái đất, nơi sông Indus, sông Ganges, và sông Brahmapootra bắt nguồn để rồi chảy theo ba hướng khác nhau ; nơi loài người chọn làm nơi lưu trú của mình, và rồi tách biệt để tản ra khắp cõi nhân gian, rời Balk, mẹ của những thành phố, để chứng thực một sự thực vĩ đại; nơi thiên nhiên, quay trở lại điều kiện nguyên sơ của nó, và kiện toàn sự bao la của nó, mời gọi nhà hiền triết và kẻ lưu vong, với lời hứa bảo đảm an toàn cho một người và sự đơn độc cho người kia–nơi đó tôi ở một mình với Thượng Đế, cầu nguyện, nhịn ăn, chờ cái chết đến.”

Giọng nói lại trùng xuống, và hai bàn tay gầy guộc nhiệt thành siết vào nhau.

“Một đêm tôi bước đi bên hai bờ của hồ nước, và nói với sự tĩnh lặng đang lắng nghe, “Khi nào Thượng Đế đến và thừa nhận bản thân ngài? Liệu có chăng sự chuộc tội? Đột nhiên có một ánh sáng bắt đầu lấp lánh rung rinh trên mặt nước; ngay sau đó một ngôi sao hiện lên, và chuyển động về phía tôi, rồi đứng trên đầu. Ánh sáng từ ngôi sao làm tôi choáng ngợp. Trong khi tôi nằm xuống nền đất, Tôi nghe thấy một giọng nói từ ngọt ngào vô tận nói, “Tình yêu của con đã chinh phục. Chúc phúc cho con, Ôi con trai của nước Ấn! Sự chuộc lỗi đang nằm trong tay. Với hai người nữa, từ những phần xa xôi của trái đất, con sẽ được trông thấy người chuộc tội, và trở thành một nhân chứng rằng người ấy đã xuất hiện. Khi mặt trời lên, hãy đi gặp họ; và đặt niềm tin của con nơi Linh hồn sẽ chỉ dẫn con.”

“Và từ lúc đó ánh sáng đã ở cùng tôi; vì vậy tôi biết được sự hiện thân của Linh hồn. Vào buổi sáng Tôi bắt đầu bước ra thế gian bằng con đường tôi đã đến. Trên một khe núi toi tìm thấy một hòn đá có giá trị to lớn, mà tôi đã bán ở Hurdwar. Qua đường Lahore, rồi Cabool, rồi Yezd, tôi đến Ispahan. Ở đó tôi mua một con lạc đà, và được nó dắt tới Bagdad, không đợi đoàn lữ hành. Một mình tôi bước đi, không sợ hãi, vì đã có Linh hồn với tôi, và vẫn ở trong tôi. Chúng ta thật vinh quang, ôi người anh em! Chúng ta sẽ được nhìn thấy người chuộc tội–nói với người ấy–tôn thờ người ấy! Tôi đã làm được.”

hồ Lang Tso - India
hồ Lang Tso – India

Giọng nói lại trùng xuống, và đôi bàn tay gầy guộc siết chặt vào nhau.

“Một tối tôi đi dạo bên bờ hồ, và nói với tĩnh lặng đang lắng nghe, “Khi nào thì Thượng Đế tới và thông báo sự hiện diện của ngài? Có sự chuộc lỗi nào không?” Bỗng nhiên có ánh sáng bắt đầu chiếu lấp lánh trên mặt nước; một ngôi sao xuất hiện ngay sau đó, và chuyển động về phía tôi, và đứng bao trùm trên đầu. Ánh sáng làm tôi sửng sốt. Trong khi tôi nằm trên mặt đất, tôi nghe một giọng nói từ vô tận ngọt ngào nói, “tình yêu của con đã chinh phục. Con đã được ban phước, ôi người con trai của Ấn Độ! Sự cứu chuộc đang ở trong tay. Với hai người khác, từ những nơi xa xăm của trái đất, con sẽ thấy người Cứu chuộc, và là nhân chứng rằng người đó đã tới. Khi bình minh thức giấc, hãy đi gặp họ; và hãy đặt toàn bộ niềm tin của con vào Linh hồn sẽ chỉ đường cho con.”

“Và kể từ đó ánh sáng đã ở lại với tôi; vì tôi biết rằng đó sự hiển lộ thấy được của Linh hồn. Vào buổi sáng tôi bắt đầu tới thế gian bằng con đường tôi đã đến. Trong một khe núi tôi tìm thấy một hòn đá rất có giá trị, tôi đã bán nó ở Hudwar. Qua Lahore, rồi Cabool, rồi Yezd, tôi tới Ispahan. Ở đó tôi mua con lạc đà này, và sau đó tôi được chỉ đường tới Bagdad, không chờ đợi đoàn lữ hành. Một mình tôi đi, không sợ hãi, vì đã có Linh hồn cạnh tôi, và luôn luôn bên tôi từ lúc đó. Ôi, hỡi người anh em, chúng ta mới vinh hạnh làm sao! Chúng ta sẽ thấy người cứu chuộc — để nói với người đó — để tôn thờ người đó! Tôi đã hoàn thành sứ mệnh.”

Đọc quyển 1 chương 1 của tác phẩm tại đây: https://truyenjimmy.com/2020/06/ben-hur-boi-lew-wallace-quyen-1-2.html

Đọc quyển 1 chương 2 của tác phẩm tại đây:https://truyenjimmy.com/2020/07/ben-hur-boi-lew-wallace-quyen-1.html

Đọc bản tiếng Anh tại đây: https://www.gutenberg.org/files/2145/2145-h/2145-h.htm#chap0103

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *