Con Mèo bởi Mary E. Wilkins Freeman

Tuyết đang rơi, và lông con Mèo dựng đứng vì tuyết, nhưng chàng ta không hề bối rối. Nó ngồi nép mình, sẵn sàng cho cú bật chết chóc, và nó đã ngồi như vậy hàng tiếng liền. Lúc này là ban đêm – nhưng cũng chẳng khác gì – tất cả thời khắc chỉ là một với con Mèo khi nó rình rập con mồi. Và rồi, tương tự, nó không chịu sự trói buộc của bất cứ con người nào, vì nó sống một mình mùa đông đó. Không có nơi nào trên thế giới này cất giọng gọi nó; không có lò sưởi nào có sẵn đĩa thức ăn chờ nó. Con Mèo khá tự do ngoại trừ những ước muốn của riêng nó, mà giờ đây đang dày vò khi không được thỏa mãn. Con Mèo rất đói bụng – gần như đói lả, quả thật là vậy. Đã rất nhiều ngày rồi thời tiết trở nên khắc nghiệt, và tất cả những thứ hoang dã yếu đuối hơn mà chúng là con mồi của nó theo di sản để lại, những con thú sinh ra để phục vụ cho giống loài của nó, đã giấu mình, hầu hết ở khắp mọi nơi, trong những cái tổ và những cái hang của chúng, và việc săn mồi kéo dài của con Mèo đã chẳng mang lại cho nó thứ gì. Nhưng nó chờ đợi trong sự kiên nhẫn phi thường và tính kiên trì của họ nhà mèo; thêm nữa, nó tin chắc. Con Mèo là một sinh vật có những tin tưởng tuyệt đối, và lòng tin của con Mèo vào những suy luận của nó chưa bao giờ lung lay. Con thỏ đã biến mất đâu đó giữa những cành cây thông rủ thấp. Giờ thì cánh cửa nhỏ bé của cô nàng lúc trước đã biến thành một tấm rèm che bằng tuyết dày, nhưng cô nàng ở bên trong đó. Con Mèo đã trông thấy con thỏ chạy vào, vụt nhanh hệt như một chiếc bóng màu xám thậm chí cả hai con mắt lão luyện và sắc sảo của anh chàng ngoái lại liếc tìm thực thể đi theo, nhưng rồi cô nàng bặt tăm. Và thế là nó ngồi xuống và đợi, nó bất động đợi trong đêm trắng, giận dữ lắng nghe tiếng gió thổi từ phương bắc bắt đầu nổi lên ở những đỉnh núi cao nhất với những tiếng rít xa xa, rồi phình lên thành nỗi tức giận đỉnh điểm, rồi xà xuống những thung lũng và khe núi với những cánh tuyết trắng giận dữ như lũ đại bàng hung tợn. Con Mèo ở bên triền một ngọn núi, trên một khoảng đất có nhiều cây cối. Phía trên nó cách một vài bước trồi cao một lối trèo bằng đá sừng sững như bức tường của một tòa thánh. Con Mèo chưa bao giờ trèo lên đó — cây cối là những bậc thang so với những đỉnh cao trong đời nó. Nó thường nhìn tảng đá với nỗi kinh ngạc, rồi kêu lên cay đắng và oán giận hệt như con người lúc đối diện với đấng Thượng Đế ghê gớm. Bên phía tay trái nó là vách đá dốc đứng. Đằng sau nó, cùng với một dải đất rừng ngắn mọc ở giữa, là rìa vuông góc đã đóng băng của một dòng suối núi. Trước mặt nó là con đường về nhà. Khi con thỏ chạy ra nó bị mắc bẫy, bàn chân bé nhỏ chẻ móng của nó không thể nào bám vào những dốc trơn như vậy. Thế là con Mèo đợi. Chỗ con Mèo đang ngồi giống như một vũng nước xoáy của rừng. Cây cối và bụi rậm đan xen bám chặt vào triền núi với những búi rễ cứng, những thân và cành cây, những cây dây leo ôm chặt lấy mọi thứ bằng những nút thắt khỏe mạnh và những cuộn dây còn lớn nữa, tạo ra một sự ảnh hưởng kỳ lạ, bắt đầu từ những thứ đã xoáy tít từ thuở rất xưa trong một dòng chảy của con nước dữ. Chỉ có điều không phải là nước, mà là gió, đã tàn phá mọi thứ theo những đường vòng xoáy sản sinh từ những cuộc công kích cực điểm dữ dội của nó. Và giờ cơn gió xoáy rải đầy trên khắp mặt tuyết những khúc gỗ những đá những thân cây và dây leo đã chết. Nó thổi xuống như khói trên đỉnh đá phía trên; nó đứng trong một cái cột xoay tròn như hồn ma nào đó từ thiên nhiên, quả đúng vậy, rồi nó tan trên bờ của vách đá, và con Mèo cúi thấp đầu mình trước chiều gió thổi mạnh từ phía sau. Gió như kim đá châm vào da con Mèo qua lớp lông dầy tuyệt đẹp của nó, nhưng nó không hề nao núng và không kêu lên đến một tiếng. Nó chẳng thu được lợi lộc gì từ tiếng kêu, và tất cả sẽ mất hết; con thỏ sẽ nghe tiếng nó kêu và biết rằng con Mèo đang đợi nó.

con Mèo kiên nhẫn đợi
kiên nhẫn là đặc tính của loài mèo

Trời càng lúc càng tối, cùng với một làn khói mù trắng kỳ lạ, thay vì bóng đen tự nhiên của đêm. Đó là một đêm bão tố và cái chết đến theo đêm tối trong tự nhiên. Các ngọn núi đều đã bị che phủ, bao bọc, rung lắc, và bị đè nén kinh động bởi nó, nhưng ngay giữa khung cảnh ấy thì sự kiên nhẫn và sức mạnh đang chảy dưới một bộ lông màu xám bé nhỏ chờ đợi, không khuất phục, kiên định.

Một luồng gió mạnh quét trên tảng đá, xoay tròn trên một bàn chân khổng lồ của cơn gió cuốn xiên xéo bên này bên kia trên bề mặt đá, rồi quét trên vách đá.

Lúc đó con Mèo thấy hai con mắt rực lên nỗi sợ hãi, điên cuồng với ý muốn bỏ trốn, nó thấy cánh mũi nở, run lẩy bẩy, nó thấy hai cái tai dựng ngược, nhưng nó vẫn ngồi yên, với mọi sợi dây thần kinh vững vàng của mình và những sợi cơ căng như dây thép. Và rồi con thỏ ló ra – có một đường vạch dài từ cuộc trốn chạy và nỗi khiếp sợ – và rồi con Mèo tóm được nó.

mèo đuổi theo thỏ
và đây là kết quả của lòng kiên nhẫn

Rồi con mèo đi về nhà, kéo lê con mồi của nó xuyên qua tuyết.

Con Mèo sống ở ngôi nhà mà chủ nó dựng, thô sơ như một căn nhà gỗ dành cho một đứa trẻ, nhưng đủ chắc chắn. Tuyết rơi dày trên mái nghiêng thấp của ngôi nhà, nhưng nó sẽ không định vị ở dưới đó. Hai cửa sổ và cánh cửa trước được đóng chặt, nhưng con Mèo biết đường vào trong. Con Mèo trèo lên một cái cây thông đằng sau ngôi nhà, dù đó là một việc khó khăn với con thỏ nặng, rồi nó chui qua cửa sổ nhỏ của mình dưới mái chìa, rồi trèo xuống phòng phía dưới qua cánh cửa lật, và nhảy phốc lên chiếc giường của chủ nó với tiếng kêu hoan hỉ chiến thắng, cùng với con thỏ và tất tật. Nhưng chủ của nó không có ở đó; ông ta đã bỏ đi từ đầu mùa thu và giờ là tháng hai. Ông ta sẽ không trở về cho đến tận mùa xuân, vì ông đã già, và những ngọn núi lạnh lẽo độc ác bám chặt lấy sức sống của ông như một con báo, và ông đã phải đi đến làng trong suốt mùa đông. Con Mèo đã biết chủ của nó bỏ đi từ lâu, nhưng suy tính của nó theo thứ tự và vòng quanh; lúc nào với nó lẽ ra phải là, và càng dễ hơn với sức chờ đợi tuyệt vời của nó vì vậy nó luôn luôn trở về nhà mong ngóng tìm chủ của mình.

Khi nó thấy rằng ông chủ vẫn vắng nhà, nó kéo con thỏ khỏi chiếc giường xuống sàn nhà, đặt một chân móng vuốt nhỏ nhắn của nó lên trên xác con vật để giữ yên nó, rồi bắt đầu ngoặm với cái đầu nghiêng sang một bên để đem cái răng khỏe nhất của nó ra mà dứt miếng thịt.

Bên trong ngôi nhà tối hơn là bên ngoài rừng, và cái lạnh như muốn cướp đi sinh mạng của mọi sinh vật, dù không ghê gớm lắm. Nếu con Mèo mù quáng không đón nhận tấm áo lông mà Thượng Đế ban tặng, nó hẳn phải cảm ơn ngài đến nhường nào vì nó có được tấm áo lông ấy. Đó là bộ lông màu xám có đốm vằn, trắng trên mặt và ngực, và dày hết mức có thể.

Gió thổi bay tuyết trên những khung cửa sổ với sức mạnh đến nỗi tuyết kêu lạo xạo như tiếng mưa tuyết rơi, và ngôi nhà lắc lư một chút. Rồi sau đó đột nhiên con Mèo nghe thấy một tiếng động, và nó thôi không ngoặm con thỏ dỏng tai lên nghe, đôi mắt màu xanh sáng của nó nhìn chằm chằm nơi một cửa sổ. Và rồi nó nghe thấy một tiếng hét khàn khàn, một tiếng hú đầy thất vọng và khẩn nài; nhưng nó biết rằng không phải là ông chủ của nó về nhà, và nó đợi, một bàn chân vẫn đặt lên con thỏ. Rồi tiếng hú ấy lại xuất hiện, và con Mèo đáp lại. Nó thốt lên tất cả những gì cần thiết khá đơn giản với hạn vi hiểu biết của nó. Trong tiếng kêu đáp lại của nó có sự tra hỏi, thông tin, cảnh báo, nỗi sợ hãi, và cuối cùng, lời mời chào làm bạn; nhưng người đàn ông ở bên ngoài không nghe thấy tiếng nó, bởi tiếng gầm rú của gió bão.

Rồi sau đó có tiếng đập cửa liên hồi, rồi đập nữa, và đập nữa. Con Mèo lôi con thỏ cuả nó xuống dưới gầm giường. Những tiếng đập cửa càng lúc càng trở nên nặng nề và nhanh hơn. Cánh tay đập những tiếng động ấy là một cánh tay yếu ớt, nhưng nó truyền đi nỗi tuyệt vọng. Cuối cùng thì cái khóa cũng long ra, người lạ mặt bước vào. Và rồi con Mèo, quan sát từ phía dưới giường, chớp mắt với ánh sáng lóe lên, và đôi con mắt màu xanh của nó khép lại. Người lạ mặt bật một que diêm và nhìn quanh. Con Mèo trông thấy một khuôn mặt dữ dằn và xanh mét vì lạnh và đói, và người đàn ông nhìn nghèo khổ và già hơn ông chủ cũ của nó, một người bị bỏ rơi vì nghèo nàn và vì lai lịch thấp kém không rõ ràng; và nó nghe thấy một tiếng lẩm bẩm, khó hiểu vì kiệt sức cất lên từ khuôn miệng thô ráp thảm thương. Có trong lời lẩm bẩm ấy cả lời báng bổ và cầu nguyện, nhưng con Mèo không biết chút gì về những thứ đó.

Người lạ mặt cài then cánh cửa mà ông ta đã đập, lấy một chút củi từ đống xếp trong góc, rồi nhanh chóng nhóm lên một đống lửa trong lò bếp cũ như hai bàn tay đã tê cóng một nửa của ông ta cho phép. Ông ta run lẩy bẩy quá thương cảm đến nỗi con Mèo dưới gầm giường cảm nhận được tiếng run ấy. Sau đó người đàn ông, có dáng nhỏ bé, yếu ớt, trên đầu ông ta lốm đốm những vết sẹo đầy đau thương, ngồi xuống một chiếc ghế cũ kỹ và cúi mình xuống bên đống lửa như thể nó là tình yêu và ham muốn duy nhất trong tâm hồn ông, chìa hơ đơi bàn tay vàng vọt của mình như những móng vuốt vàng, và ông ta rên rỉ. Con Mèo bước ra khỏi gầm giường rồi nhảy phốc lên lòng ông ta cùng với con thỏ. Người đàn ông hét lên một tiếng lớn, bắt đầu khiếp sợ, đứng bật dậy, còn con Mèo thì ngã nghiêng móng nó bám lấy sàn nhà, con thỏ rớt chình ình, người đàn ông hốt hoảng chống tay vào tường, thở hổn hển vì sợ hãi. Con Mèo chộp lấy gáy con thỏ rồi kéo lê nó đến chân người đàn ông. Sau đó nó cất lên tiếng kêu the thé, nài nỉ, nó cong cao cái lưng, cái đuôi lông vũ tuyệt đẹp của nó vẫy vẫy. Nó cạ xát vào bàn chân người đàn ông, đôi bàn chân lồi ra vì đôi giầy rách rưới.

Người đàn ông đẩy con Mèo ra, nhẹ nhàng đúng mức, và bắt đầu lục lọi xung quanh căn nhà gỗ bé nhỏ. Ông ta thậm chí khó nhọc trèo thang lên gác xép, bật một que diêm, và nhìn chăm chăm vào bóng tối với hai con mắt căng hết cỡ. Ông ta lo sợ rằng có người ở, bởi vì có mèo. Kinh nghiệm của ông ta với con người chẳng dễ chịu chút nào, và chưa từng bao giờ có một người nào đó đối xử dễ chịu với ông. Ông ta là một Ishmael già lang thang giữa đồng loại của mình; ông ta vừa mới sa cơ lỡ bước vào nhà của một người anh em, và người anh em đó không có ở nhà, vì vậy ông ta hoan hỉ.

Ông ta quay sang con Mèo, và khom khom người xuống vuốt lưng nó, con vật cong cái lưng của mình như một dây cung.

Sau đó ông ta nhấc con thỏ lên và thèm thuồng nhìn nó bằng ánh sáng hắt ra từ bếp lửa. Hai hàm ông ta chem chép. Ông ta có lẽ đã gần như nuốt sống con vật. Ông ta lóng ngóng – con Mèo theo sát gót chân ông – quanh những giá treo thô sơ và một cái bàn, rồi tìm thấy với tiếng lẩm bẩm tự khen thưởng, một cái đèn có dầu trong đó. Ông ta châm đèn; rồi tìm thấy một cái chảo rán và một con dao, rồi lột da con thỏ, và chuẩn bị nấu nó, con Mèo lúc nào cũng ở dưới chân ông.

Khi mùi thơm của thịt chín lan khắp ngôi nhà gỗ, cả người và Mèo đều trông như chó sói. Người đàn ông lật con thỏ bằng một tay còn tay kia cúi xuống vuốt ve con Mèo. Con Mèo nghĩ ông ta là một người tử tế. Nó yêu quí ông ta bằng tất cả trái tim mình, dù nó mới chỉ biết ông ta trong một thời gian ngắn ngủi, và mặc dù trên gương mặt người đàn ông hiện rõ mồn một hai vẻ trái ngược vừa đáng thương hại vừa ma mãnh.

Đó là một khuôn mặt với chòm râu muối tiêu cáu bẩn, với những nốt sẹo rỗ vì thủy đậu trên má, và những ký ức lầm lạc trong con mắt lim dim, nhưng con Mèo chấp nhận người đàn ông vô điều kiện và yêu mến ông ta. Khi con thỏ đã nấu chín được nửa, cả con Mèo lẫn người đàn ông đều không thể chờ đợi hơn được nữa. Người đàn ông lấy nó ra khỏi bếp lửa, chia ra chính xác làm hai phần, ông chia cho con Mèo một nửa và giữ nửa kia cho mình. Rồi cả hai cùng ăn.

Sau đó người đàn ông thổi tắt lửa, gọi con Mèo tới bên, đặt mình lên giường, kéo tấm chăn sờn rách, và thiếp vào giấc ngủ cùng với con Mèo trong lồng ngực.

Người đàn ông trở thành khách của con Mèo trong suốt thời gian còn lại của mùa đông, mà mùa đông thì dài ở trên những ngọn núi. Chủ nhân chính thức của túp lều gỗ bé nhỏ không trở lại cho đến tận tháng Năm. Toàn bộ thời gian đó con Mèo làm việc vất vả, và nó trở nên gầy gò hơn, vì nó chia sẻ mọi thứ nó kiếm được với người đàn ông trừ chuột; và có đôi lúc con mồi cảnh giác, và kết quả của lòng kiên nhẫn dài ngày quá ít ỏi với cả hai. Người đàn ông ốm và yếu, nên chẳng ăn được nhiều, tuy vậy, lại là điều may mắn, vì ông ta không thể tự mình đi săn. Suốt cả ngày ông ta nằm bệt trên giường, hoặc ngồi nép mình bên bếp lửa. Điều tốt lành là củi đã được chặt nhỏ xếp đống sẵn sàng cho việc nhặt bỏ vào lò bếp, cách cánh cửa một quãng, việc này thì ông ta phải tự làm.

Con Mèo lùng sục săn mồi không biết mệt. Thỉnh thoảng nó đi biệt một vài ngày liền, và lúc đầu thì người đàn ông lo sợ nghĩ rằng nó sẽ không bao giờ trở lại; sau đó ông ta lại nghe thấy tiếng kêu quen thuộc của nó ngoài cửa, vấp phải chân của nó rồi để nó đi vào trong. Sau đó cả hai ăn cùng nhau, thức ăn chia đều; rồi thì con Mèo vừa nghỉ ngơi vừa kêu rừ…rừ…rừ, cuối cùng lăn ra ngủ trong vòng tay người đàn ông.

ông già và con mèo
ông già và con mèo tranh của Ivan Pelevin

Gần về mùa xuân việc săn mồi khá khẩm hơn; nhiều động vật nhỏ hoang dã muốn ra khỏi nhà của chúng, đi tìm bạn tình và thức ăn. Một ngày con Mèo gặp may mắn – một con thỏ, một con gà gô, và một con chuột. Nó không thể tha chúng cùng một lúc, nhưng cuối cùng nó cũng lôi được chúng về đến tận cửa nhà. Rồi nó cất tiếng kêu, nhưng không ai trả lời. Tất cả các dòng suối núi đã tan băng, và không khí tràn ngập tiếng ùng ục của nhiều con nước, thỉnh thoảng mấy cái mỏ chim chúi xuống xuyên qua mặt nước. Cây cối rung rinh những âm thanh của gió mùa xuân mới; có một sắc đỏ của hoa hồng và xanh vàng trên bề mặt nhấp nhô của một ngọn núi xa xăm nhìn thấy từ lối rừng thưa. Những chỏm bụi cây phình ra và lấp lánh ánh đỏ, đó đây đã có hoa ; nhưng con Mèo chẳng có liên quan gì đến hoa cả. Nó đứng bên cạnh chiến lợi phẩm của mình nơi cửa nhà, rồi kêu và kêu mãi niềm vui chiến thắng xen lẫn lời phàn nàn và lời năn nỉ, nhưng không có ai tới mở cửa cho nó vào. Rồi con Mèo để kho báu của nó nơi cánh cửa, và đi vòng ra phía sau của ngôi nhà tới chỗ cây thông, rồi thoăn thoắt lao lên thân cây, đi vào qua cửa sổ nhỏ của nó, và chui xuống qua cửa lật tới căn phòng, nhưng người đàn ông đã bỏ đi.

Con Mèo lại kêu lên lần nữa – tiếng kêu của một con vật tìm kiếm tình bạn nơi con người là một trong những nốt nhạc buồn trên thế gian này; nó nhìn vào tất cả mọi góc; nó nhảy lên chiếc ghế nơi cửa sổ và nhìn ra ngoài; nhưng chẳng có ai tới cả. Người đàn ông đã bỏ đi và chẳng bao giờ quay trở lại nữa.

ông bỏ con đi thật sao
ông ơi….ông bỏ con đi rồi sao?

Con Mèo ăn con chuột của nó bên ngoài trên lớp cỏ cạnh ngôi nhà; con thỏ và con gà gô nó nặng nề mang vào nhà, nhưng người đàn ông không tới để ăn cùng. Cuối cùng thì, sau đó một vài ngày, mộ mình nó ăn hết chúng; sau đó nó ngủ một giấc dài trên chiếc giường, và khi nó tỉnh dậy người đàn ông không có ở đó.

Rồi thì con Mèo lại đi tới những chỗ nó săn mồi, và trở về nhà vào buổi tối với một con chim béo núc, gan lì lí luận với niềm mong mỏi rằng người đàn ông sẽ ở đó; và có ánh sáng nơi cửa sổ, rồi khi nó cất tiếng kêu người chủ cũ của nó mở cửa và để nó vào nhà.

Chủ của con Mèo có tình bạn gắn kết với nó nhưng không có tình cảm. Ông chưa bao giờ vuốt ve nó như người đàn ông vô gia cư dịu dàng đó, nhưng ông có niềm hãnh diện nơi con Mèo và lo lắng cho tính mạng của nó, dù ông đã bỏ mặc nó một mình suốt mùa đông mà không có chút đắn đo nào. Ông sợ rằng có điều không may xảy đến với con Mèo, dú nó quá lớn so với đồng loại của mình, và là một thợ săn dũng mãnh. Thế nên, khi ông trông thấy con Mèo nơi cánh cửa trong chiếc áo lông mùa đông bóng mượt hết sảy một vẻ lộng lẫy, khuôn ngực trắng và nét mặt tỏa sáng như tuyết trong ánh mặt trời của nó, gương mặt ông hoan hỉ đón chào, và con Mèo ôm lấy chân ông với thân hình cong cong rung động tiếng prừ prừ vui mừng khôn xiết.

ong gia va con meo4
ông già và con mèo, chạm khắc gỗ của French Breton

Con Mèo ăn con chim một mình, vì chủ nó đã nấu bữa tối trên bếp lửa. Sau bữa tối chủ của con Mèo lấy cái tẩu, và tìm một chút thuốc lá cất đi từ trước mùa đông trong căn nhà. Ông thường hay nghĩ về thứ đó; thứ đó và con Mèo dường như mới là lý do để về nhà vào mùa xuân. Nhưng chỗ thuốc lá đó hết sạch; không còn đến cả một hạt bụi. Ông chửi thề một lúc với điệu giận dữ đều đều, làm lời báng bổ mất đi hiệu quả thông thường của nó. Ông trước đây từng là, và là, một kẻ nghiện rượu; ông đã đi lang thang khắp thế gian cho đến khi mọi dấu vết xó xỉnh của nó hằn lên rõ nét trong tâm hồn ông, do vậy mà thành chai sạn, cho đến khi chính trí tuệ của ông trì trệ. Ông là một ông lão già cả.

Ông đi tìm thuốc lá bằng tính hiếu thắng kiên định uể oải ; rồi ông chăm chú nhìn khắp phòng với nỗi băn khoăn ngẩn ngơ. Bỗng nhiên nét mặt ông co giật thay đổi. Một cái nắp nồi nữa bị vỡ; một miếng thảm cũ được chèn trên cửa sổ để ngăn gió lạnh; củi nhóm lò của ông đã hết sạch. Ông nhìn và không còn chút dầu nào trong can. Ông nhìn những tấm vải phủ giường của mình; ông nhấc chúng lên, và ông lại cất lên tiếng phàn nàn trong cổ họng. Sau đó ông lại đi tìm thuốc lá.

Cuối cùng thì ông cũng phải từ bỏ. Ông ngồi xuống bên bếp lửa, vì tháng Năm trên núi vẫn còn lạnh; ông ngậm cái tẩu rỗng của mình trong miệng, vầng trán gồ ghề của ông nhíu lại, ông và con Mèo nhìn nhau qua rào chắn yên lặng không thể vượt qua giữa người và thú từ buổi khai sinh thế gian.

Xem bản tiếng Anh tại : https://americanliterature.com/author/mary-e-wilkins-freeman/short-story/the-cat

Xin mời đọc truyện tự sự của mèo tôi tại đây : http://truyenjimmy.com/2020/05/jimmy-the-cat-p-1.html


3 replies to “Con Mèo bởi Mary E. Wilkins Freeman”

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *